Phật Thuyết Kinh đại Bát Niết Bàn - Phẩm Hai Mươi Bốn - Phẩm Ca Diếp Bồ Tát - Phần Bảy
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương
PHẨM HAI MƯƠI BỐN
PHẨM CA DIẾP BỒ TÁT
PHẦN BẢY
Bạch Thế Tôn! Bậc Tu Đà Hoàn này vì đắc đạo trước mà gọi là Tu Đà Hoàn hay là vì chứng Sơ Quả mà gọi là Tu Đà Hoàn?
Nếu vì đắc đạo trước, thời lúc được khổ pháp nhẫn cớ sao chẳng gọi là Tu Đà Hoàn mà gọi là Hướng?
Nếu vì được Sơ Quả, thời người ngoại đạo trước dứt phiền não đến Vô sở hữu xứ tu đạo vô lậu được quả A Na Hàm, cớ sao chẳng gọi là Tu Đà Hoàn?
Này thiện nam tử! Vì được Sơ Quả mà gọi là Tu Đà Hoàn, lúc đó người này đầy đủ tám trí và mười sáu hạnh.
Bạch Thế Tôn! Người được A Na Hàm cũng đầy đủ tám trí và mười sáu hạnh.
Cớ sao chẳng được gọi là Tu Đà Hoàn?
Này thiện nam tử! Mười sáu hạnh hữu lậu có hai thứ: Cộng và bất cộng.
Mười sáu hạnh vô lậu cũng có hai: Hướng quả và đắc quả. Tám trí cũng có hai, hướng quả và đắc quả. Bậc Tu Đà Hoàn rời bỏ mười sáu hạnh công, chứng được mười sáu hạnh bất công, rời bỏ tám trí hướng quả chứng được tám trí đắc quả. Bậc A Na Hàm thời chẳng như vậy. Do đây nên Sơ Quả gọi là Tu Đà Hoàn.
Này thiện nam tử! Bậc Tu Đà Hoàn duyên nơi Tứ đế, bậc A Na Hàm chỉ duyên nhất đế, nên Sơ Quả gọi là Tu Đà Hoàn.
Do nhân duyên trên đây nên dùng cá Tích để ví dụ, ngó khắp bốn phương rồi bèn đi. Nói đi là chỉ cho bậc Tư Đà Hàm nhiếp tâm tu hành để dứt trừ tham, sân, si, mạn.
Như cá Tích kia nhìn xem khắp bốn phương rồi vì kiếm ăn nên đi, đi rồi lại đứng lại, đây là dụ bậc A Na Hàm được món ăn rồi thời dừng lại.
Có hai hạng A Na Hàm: Một là hiện tại được quả A Na Hàm rồi tiến tu được quả A La Hán, hai là hạng tham trước tam muội tịch tịnh trong Cõi Sắc và Cõi Vô Sắc, bậc này chẳng thọ thân Cõi Dục nên gọi là A Na Hàm.
Bậc A Na Hàm này lại có năm hạng: Một là trung Bát Niết Bàn, hai là thọ thân Bát Niết Bàn, ba là hành Bát Niết Bàn, bốn là vô hành Bát Niết Bàn, năm là thượng lưu Bát Niết Bàn. Lại có sáu hạng là thân hiện tại Bát Niết Bàn. Lại có bảy hạng là thân Vô Sắc Giới Bát Niết Bàn.
Hạng hành Bát Niết Bàn có hai: Hoặc thọ hai thân, hoặc thọ bốn thân. Nếu thọ hai thân thời gọi là lợi căn, nếu thọ bốn thân thời gọi là độn căn. Lại có hai hạng, một là tinh tấn mà không chánh định tự tại, hai là giải đãi mà có chánh định tự tại.
Lại có hai hạng: Một là có đủ tinh tấn và chánh định tự tại, hai là chẳng có cả hai.
Này thiện nam tử! Chúng sanh trong Cõi Dục, Cõi Sắc có hai thứ nghiệp: Tác nghiệp và thọ sanh nghiệp. Bậc A Na Hàm trung Bát Niết Bàn chỉ có tác nghiệp mà không thọ sanh nghiệp, nên bỏ thân Cõi Dục lúc chưa đến Cõi Sắc, vì lợi căn mà Bát Niết Bàn.
Bậc A Na Hàm trung Bát Niết Bàn này có bốn tâm: Một là phi học, phi vô học, hai là học, ba là vô học, bốn là phi học, phi vô học nhập Niết Bàn.
Thế nào lại gọi là trung Bát Niết Bàn?
Này thiện nam tử! Trong bốn thứ tâm của bậc A Na Hàm này hai tâm là Niết Bàn, hai tâm là chẳng phải Niết Bàn, do đây nên gọi là trung Bát Niết Bàn.
Bậc A Na Hàm thọ thân Bát Niết Bàn có hai thứ: Một là tác nghiệp, hai là sanh nghiệp.
Bậc này bỏ thân Dục Giới thọ thân sắc giới, tinh tấn tu hành mãn thọ mạng thời nhập Niết Bàn.
Bạch Thế Tôn! Nếu là thọ mạng hết nhập Niết Bàn, tại sao gọi rằng thọ thân Niết Bàn?
Này thiện nam tử! Bậc này thọ thân rồi sau mới dứt hết phiền não trong Tam Giới, nên gọi là thọ thân Niết Bàn.
Bậc A Na Hàm thường tu hành do sức tam muội hữu vi có thể dứt phiền não nhập Niết Bàn, do đây nên gọi là hành Bát Niết Bàn.
Bậc A Na Hàm rõ biết quyết định sẽ chứng được Niết Bàn nên giải đãi, cũng do sức tam muội hữu vi mãn thọ mạng thời được nhập Niết Bàn, do đây gọi là vô hành Bát Niết Bàn.
Nếu bậc A Na Hàm được đệ Tứ Thiền rồi lại sanh lòng mến sơ thiền do đây sanh xuống Trời Sơ Thiền.
Nơi đây có hai dòng: Dòng phiền não và dòng đạo mà mến Nhị Thiền, nên sanh lên Trời Nhị Thiền, lần đến Trời Tứ Thiền cũng như vậy.
Bậc này trong Trời Tứ Thiền lại có hai hạng:
Một là vào Cõi vô sắc, hai là vào Trời Ngũ Tịnh Cư.
Hai bậc này, bậc thích tam muội thời vào Cõi Vô Sắc.
Bậc thích trí huệ thời vào Trời Ngũ Tịnh Cư.
Hai bậc trên đây, một hạng tu đệ Tứ Thiền có năm từng cấp, một hạng chẳng tu.
Thế nào là năm từng cấp?
Là Hạ, Trung, Thượng, Thượng Trung, Thượng Thượng. Bậc tu Thượng Thượng thời ở Trời Sắc Cứu Cánh, bậc tu Trung Thượng thời ở Trời Thiện Hiện, bậc tu Thượng Phẩm thời ở Trời Thiện Kiến, bậc tu Trung Phẩm thời ở Trời Vô Nhiệt, bậc tu Hạ Phẩm thời ở Trời Vô Phiền.
Hai bậc này, một thời ưa luận nghị ở Trời Ngũ Tịnh Cư, một thời ưa tịch tịnh vào Cõi Vô Sắc.
Lại có hai hạng: Một thời tu huân thiền vào Trời Ngũ Tịnh Cư, một thời chẳng tu huân thiền sanh Cõi Vô Sắc mãn thọ mạng mà nhập Niết Bàn, do đây gọi là thượng lưu Bát Niết Bàn. Nếu muốn vào Cõi Vô Sắc thời không thể tu năm từng cấp Tứ Thiền.
Nếu tu năm từng cấp này thời có thể quở trách định Vô Sắc.
Bạch Thế Tôn! Bậc trung Bát Niết Bàn là lợi căn.
Nếu là lợi căn cớ sao chẳng hiện tại nhập Niết Bàn?
Cớ sao Dục Giới có hạng trung Bát Niết Bàn mà sắc giới thời không.
Này thiện nam tử! Người này thân tứ đại hiện tại yếu kém không thể hành đạo. Dầu có Tỳ Kheo thân thể tráng kiện nhưng những duyên nhà cửa y phục uống ăn thuốc men v.v… chẳng đủ, nên chẳng được hiện tại Bát Niết Bàn.
Này thiện nam tử! Ngày trước có một lúc ta ở nước Xá Vệ tại Tịnh Xá A Na Phân Chỉ, có một Tỳ Kheo đến bạch với ta rằng ông luôn tu hành mà chẳng thể được quả Tu Đà Hoàn đến quả A La Hán.
Lúc đó ta liền bảo A Nan rằng: Nay ông nên lo đủ đồ cần dùng cho Tỳ Kheo này.
A Nan liền dắt Tỳ Kheo đó đến rừng Kỳ Đà cho ở phòng nhà tốt.
Tỳ Kheo đó nói với A Nan rằng: Trông mong Đại Đức vì tôi mà trần thiết phòng nhà, dọn dẹp thật sạch sẽ, dùng thất bảo trang nghiêm, treo phan lọng bằng lụa.
A Nan nói: Người nghèo trong thế gian mới gọi là Sa Môn, tôi làm sao sắm được những đồ như vậy?
Tỳ Kheo nói: Nếu Đại Đức có thể sắm sửa được cho tôi thời tốt lắm, bằng không thời tôi sẽ trở về ra mắt Phật.
A Nam liền trở về đem việc ấy bạch với Phật. Đức Phật liền bảo A Nan sắm sửa tất cả đồ dùng theo ý của Tỳ Kheo đó.
Tỳ Kheo đó được những đồ cần dùng theo ý mình muốn, liền nhiếp niệm tu hành, không bao lâu chứng được quả Tu Đà Hoàn lần đến quả A La Hán.
Này thiện nam tử! Vô lượng chúng sanh đáng được nhập Niết Bàn, nhưng vì thiếu thốn chướng ngại loạn động tâm niệm của họ, nên chẳng chứng được.
Này thiện nam tử! Lại có chúng sanh thích giáo quá nhiều, tâm họ bậc bội nhiều việc chẳng thể được chánh định nên hiện tại không được Bát Niết Bàn.
Này thiện nam tử! Như lời ông nói, duyên cớ gì bỏ thân Dục Giới có hạng trung Bát Niết Bàn, còn sắc giới thời không?
Này thiện nam tử! Người này quán phiền não Cõi Dục có hai nhân duyên: Nội và ngoại, mà trong Cõi Sắc thời không ngại nhân duyên.
Cõi Dục lại có hai thứ ái tâm: Dục ái và sắc ái, quán hai ái tâm này rồi hết lòng quở trách, do quở trách này mà được nhập Niết Bàn.
Trong Cõi Dục có thể quở trách được những phiền não thô: Xan tham, sân hận, tật đố, vô tàm, vô quí, do đây nên được nhập Niết Bàn. Lại người trong Cõi Dục tánh chất dũng kiện, vì được hưởng quả, nên trong Cõi Dục có trung Bát Niết Bàn, trong Cõi Sắc thời không.
Này thiện nam tử! Trung Bát Niết Bàn có ba hạng: Thượng, trung và hạ. Hạng thượng lúc bỏ thân chưa rời Cõi Dục bèn được Niết Bàn. Hạng trung mới rời Cõi Dục chưa đến Cõi Sắc bèn được Niết Bàn. Hạng hạ rời khỏi Cõi Dục đến ranh Cõi Sắc bèn được Niết Bàn.
Như cá Tích khi đi kiếm được đồ ăn thời dừng lại, hạng này cũng vậy, ở nơi cỏi sắc và Cõi vô sắc mà được thọ thân nên gọi là dừng lại. Và cũng do chẳng còn thọ thân Nhân, Thiên, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh trong Cõi Dục nên gọi là dừng lại.
Vì đã dứt vô lượng phiền não kiết sử còn thừa lại chút ít nên gọi là dừng lại. Lại vì vĩnh viễn chẳng gây tạo nghiệp phàm phu nên gọi là dừng lại. Lại vì tự mình chẳng còn sợ sệt, cũng chẳng làm cho người khác sợ sệt nên gọi là dừng lại.
Vì xa lìa hai ác tâm: Xan tham, sân hận nên gọi là dừng lại.
Này thiện nam tử! Bậc đến bờ kia là A La Hán, Bích Chi Phật, Bồ Tát, Chư Phật Thế Tôn, dụ như thần qui trên bờ dưới nước đều đi tự tại.
Duyên cớ gì dùng thần qui để ví dụ?
Vì thần qui khéo giấu năm chi. Bậc A La Hán nhẫn đến Chư Phật cũng khéo giấu che năm căn. Dưới nước là dụ thế gian, trên bờ là dụ xuất thế. Các Bậc Thánh này có thể quán sát tất cả ái phiền não lên đến bờ kia, nên dụ như thần qui dưới nước trên bờ đều đi tự tại.
Này thiện nam tử! Như bảy hạng chúng sanh trong Sông Hằng, dầu có tên cá rùa nhưng chẳng rời khỏi nước, Kinh Đại Niết Bàn này từ nhất xiển đề lên đến Chư Phật, dầu có tên khác nhau nhưng cũng chẳng rời khỏi Phật Tánh.
Này thiện nam tử! Bảy hạng chúng sanh đây, hoặc pháp lành hoặc pháp ác, hoặc đạo phương tiện, hoặc đạo giải thoát, hoặc đạo thứ đệ, hoặc nhân, hoặc quả, tất cả đều là Phật Tánh. Đây gọi là từ ngữ tùy tự ý của Như Lai.
Bạch Thế Tôn! Nếu có nhân thời có quả, không nhân thời không quả.
Niết Bàn gọi là quả, là thường trụ nên không nhân.
Nếu đã không nhân tại sao gọi là quả?
Niết Bàn đây cũng gọi là Sa Môn, cũng gọi là Sa Môn quả.
Thế nào là Sa Môn?
Thế nào là Sa Môn quả?
Này thiện nam tử! Trong thế gian có bảy thứ quả: Một là phương tiện quả, hai là báo ân quả, ba là thân cận quả, bốn là dư tàn quả, năm là bình đẳng quả, sáu là quả báo quả, bảy là viễn ly quả.
Như người đời, mùa thu thâu gặt được nhiều lúa, bảo nhau rằng được phương tiện quả. Phương tiện quả gọi là nghiệp hành quả.
Quả này có hai nhân: Cận nhân và viễn nhân. Cận nhân là hột giống, viễn nhân là nước phân nhân công. Đây gọi là phương tiện quả.
Như người đời phụng dưỡng cha mẹ. Cha mẹ nói rằng nay chúng tôi đã được quả báo ơn phụng dưỡng. Người con có thể báo ơn gọi đó là quả.
Quả này có hai nhân: Cận nhân và viễn nhân, cận nhân là nghiệp thuần thiện đời quá khứ của cha mẹ, viễn nhân là sanh ra người con có hiếu. Đây gọi là báo ân quả.
Như có người gần gũi bạn lành, hoặc được quả Tu Đà Hoàn đến quả A La Hán. Người này nói rằng nay tôi được quả báo thân cận.
Quả này có hai nhân: Cận nhân và viễn nhân. Cận là tín tâm, viễn là bạn lành. Đây gọi là thân cận quả.
Như do chẳng sát sanh mà được thân thứ ba sống lâu, đây gọi là dư tàn quả.
Quả này cũng có hai nhân: Cận nhân và viễn nhân. Cận là thân khẩu ý thanh tịnh, viễn là sống lâu. Đây gọi là dư tàn quả.
Bình đẳng quả là nói khí thế giới, quả này cũng có hai nhân: Một là cận nhân, hai là viễn nhân.
Cận nhân là chúng sanh tu mười nghiệp lành. Viễn nhân là đại tam tai.
Quả báo quả là như người chứng đặng thân thanh tịnh rồi tu ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh, người này bèn nói tôi được quả báo.
Quả này có hai nhân: Cận nhân và viễn nhân Cận nhân là hiện tại thân, khẩu, ý thanh tịnh.
Viễn nhân là quá khứ thân, khẩu, ý thanh tịnh.
Viễn ly quả tức là Niết Bàn lìa các phiền não, tất cả các nghiệp lành là nhân Niết Bàn.
Nhân Niết Bàn này có hai: Cận nhân và viễn nhân. Cận nhân là ba môn giải thoát, viễn nhân tức là pháp lành đã tu từ vô lượng đời.
Này thiện nam tử! Như pháp thế gian hoặc nói sanh nhân, hoặc nói liễu nhân. Pháp xuất thế cũng như vậy, cũng nói sanh nhân cũng nói liễu nhân.
Ba môn giải thoát, ba mươi bảy phẩm trợ đạo có thể làm cho sanh nhân của tất cả phiền não chẳng sanh được, mà cũng làm liễu nhân cho Niết Bàn. Xa lìa phiền não thời đặng thấy rõ Niết Bàn, nên Niết Bàn chỉ có liễu nhân mà không có sanh nhân.
Này thiện nam tử! Như lời ông hỏi: Thế nào là Sa Môn?
Thế nào là Sa Môn quả?
Này thiện nam tử! Sa Môn Na tức là Bát Chánh Đạo, Sa Môn Quả là từ nơi đạo rốt ráo xa lìa tất cả tham, sân v.v… đây gọi là Sa Môn Na và Sa Môn Quả.
Bạch Thế Tôn! Duyên cớ gì Bát Chánh Đạo gọi là Sa Môn Na?
Này thiện nam tử! trong đời nói Sa Môn gọi đó là thiếu thốn, na gọi là đạo. Đạo này dứt tất cả thiếu thốn, và dứt tất cả đạo, do nghĩa này gọi Bát Chánh Đạo là Sa Môn Na. Từ trong đạo này chứng được Thánh Quả nên gọi là Sa Môn Quả.
Lại Sa Môn Na, như người đời có ai thích tịch tịnh cũng gọi là Sa Môn, đạo này cũng như vậy, có thể làm cho người tu hành xa lìa những sự ác tà mạng v.v… của thân, khẩu, ý đặng vui tịch tịnh nên gọi đó là Sa Môn Na.
Như trong đời người dưới có thể làm người trên, đây gọi là Sa Môn. Đạo này cũng như vậy, có thể làm cho người dưới thành người trên nên được gọi là Sa Môn Na.
Bậc A La Hán tu đạo này được quả Sa Môn. Được gọi là đến nơi bờ kia.
Quả A La Hán chính là năm phần pháp thân vô học: Giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến.
Do năm phần này được đến bờ kia, nên gọi là đến bờ kia. Do đến bờ kia nên tự nói rằng tôi đã hết sanh tử, phạm hạnh đã trọn, chỗ làm đã xong, chẳng thọ thân đời sau.
Này thiện nam tử! Bậc A La Hán dứt hẳn nhân duyên sanh tử ba đời, nên tự nói tôi đã hết sanh tử. Bậc này cũng dứt thân ngũ ấm trong ba cõi nên lại nói rằng tôi đã hết sanh tử. Chỗ tu phạm hạnh đã rốt ráo, nên xướng rằng phạm hạnh đã trọn, lại vì xả học đạo nên cũng gọi là đã trọn. Như chỗ mong cầu, lúc trước ngày nay đã được, nên lại xướng rằng chỗ làm đã xong.
Hành đạo được quả cũng nói rằng đã xong. Vì được tận trí và vô sanh trí nên nói rằng tôi đã hết sanh tử, dứt hết kiết sử hữu lậu. Do nghĩa này nên gọi bậc A La Hán đặng đến bờ kia.
Như A La Hán, bậc Bích Chi Phật cũng lại như vậy.
Bồ Tát và Phật thành tựu đầy đủ sáu môn Ba la mật gọi là đến bờ kia. Phật và Bồ Tát được Vô Thượng Chánh Giác rồi gọi là đầy đủ sáu môn Ba la mật, vì được quả của sáu môn Ba la mật như vậy. Do được quả nên gọi là đầy đủ.
Này thiện nam tử! Bảy chúng sanh đây vì chẳng thể tu tập bốn điều: Thân, giới tâm và huệ, nên hay gây tạo tội ngũ nghịch, dứt căn lành, phạm bốn tội trọng, hủy báng Phật, Pháp, Tăng, do đây nên gọi là thường chìm đắm.
Này thiện nam tử! Trong bảy hạng chúng sanh này ai có thể gần gũi thiện tri thức chí tâm nghe và nhận lấy chánh pháp của Như Lai, trong tâm khéo tư duy ở đúng pháp, siêng năng tu tập thân, giới, tâm và huệ, do đây nên được gọi là qua khỏi sông sanh tử đến nơi bờ kia.
Nếu có người nói rằng: Nhất xiển đề được Vô Thượng Chánh Giác, lời này gọi là nhiễm trước. Nếu nói rằng chẳng được, thời gọi là lời hư vọng.
Này thiện nam tử! Bảy hạng này, hoặc có một người đủ cả bảy, hoặc mỗi người mỗi hạng.
Nếu có người nào tâm tưởng khác, miệng nói khác, cho rằng Nhất xiển đề đặng Vô Thượng Chánh Giác, phải biết người này hủy báng Phật, Pháp, Tăng. Nếu nói không được thời cũng gọi là hủy báng Phật, Pháp, Tăng.
Nếu nói rằng bát Thánh đạo là của phàm phu được, hoặc nói chẳng phải phàm phu được, đều gọi là hủy báng Phật, Pháp, Tăng.
Nếu nói rằng tất cả chúng sanh quyết định có Phật Tánh, hoặc nói quyết định không Phật Tánh, đều gọi là hủy báng Phật, Pháp, Tăng.
Này thiện nam tử! Do đây nên trong Khế Kinh ta nói rằntg có hai hạng người hủy báng Phật, Pháp, Tăng:
Một là người chẳng tin, vì họ giận hờn.
Hai là người dầu tin nhưng vì chẳng hiểu nghĩa.
Nếu người tin mà không có trí huệ thời hay thêm lớn vô minh. Nếu người có trí huệ mà không có tín tâm thời hay tăng trưởng tà kiến.
Người chẳng tin vì tâm họ giận hờn nên nói rằng không có Phật, Pháp, Tăng. Người tin mà không trí huệ giải nghĩa điên đảo làm cho người nghe pháp hủy báng Phật, Pháp, Tăng.
Do đây nên ta nói người chẳng tin vì lòng hờn giận, người tin lại không trí huệ, những người này hay hủy báng Phật, Pháp, Tăng.
Này thiện nam tử! Nếu nói rằng Nhất xiển đề chưa sanh pháp lành bèn được Vô Thượng Chánh Giác, người này cũng gọi là hủy báng Phật, Pháp, Tăng. Nếu nói Nhất xiển đề rời bỏ Nhất xiển đề ở trong thân khác được Vô Thượng Chánh Giác, người này cũng gọi là hủy báng Phật, Pháp, Tăng.
Nếu nói rằng Nhất xiển đề có thể sanh căn lành, sanh căn lành rồi nối luôn chẳng dứt chứng được Vô Thượng Chánh Giác, nên gọi rằng Nhất xiển đề được vô thượng bồ đề, phải biết rằng người này chẳng hủy báng Tam Bảo.
Nếu có người nói rằng tất cả chúng sanh quyết định có Phật Tánh thường, lạc, ngã, tịnh, bất tác, bất sanh, do vì phiền não nên chẳng thấy được, người này là hủy báng Phật, Pháp, Tăng.
Nếu nói rằng tất cả chúng sanh đều không có Phật Tánh cũng như sừng thỏ, do từ phương tiện mà sanh, trước kia không nay mới có, có rồi trở lại không, người này là hủy báng Phật, Pháp, Tăng.
Nếu nói rằng Phật Tánh của chúng sanh chẳng phải có như hư không, chẳng phải không như sừng thỏ. Vì hư không là thường, sừng thỏ là không, nên được nói là cũng có cũng không. Vì có nên phá sừng thỏ, vì không nên phá hư không. Thuyết trên đây chẳng hủy báng Tam Bảo.
Này thiện nam tử! Luận về Phật Tánh chẳng gọi là một pháp, chẳng gọi là mười pháp, chẳng gọi là trăm pháp, chẳng gọi là ngàn pháp, chẳng gọi là muôn pháp.
Lúc chưa được Vô Thượng Chánh Giác, tất cả thiện, bất thiện, vô ký đều gọi là Phật Tánh. Có lúc Đức Như Lai trong nhân nói quả, trong quả nói nhân, đây gọi là từ ngữ tùy tự ý của Như Lai. Vì tùy tự ý mà nói nên gọi là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác.
Bạch Thế Tôn! Như lời của Phật nói: Phật Tánh của chúng sanh dường như hư không.
Thế nào gọi là như hư không?
Này thiện nam tử! Tánh hư không chẳng phải quá khứ, vị lai, hiện tại.
Phật Tánh cũng như vậy.
Hư không chẳng phải quá khứ, vì không phải hiện tại. Nếu pháp là hiện tại mới có thể nói là quá khứ, vì không hiện tại nên không quá khứ. Hiện tại cũng không, vì không vị lai. Nếu pháp là vị lai mới có thể nói là hiện tại.
Vì không vị lai nên không hiện tại. Vị lai cũng không vì không hiện tại và quá khứ. Nếu pháp có hiện tại và quá khứ thời có vị lai, vì không quá khứ hiện tại nên không vị lai.
Do nghĩa trên đây nên tánh của hư không chẳng phải nhiếp trong ba đời.
Này thiện nam tử! Vì hư không là không nên không có ba đời, chẳng phải vì có mà không có ba đời. Như hoa đốm hư không vì chẳng phải là có nên không có ba đời. Hư không cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Không có vật chính đó là hư không, Phật Tánh cũng như vậy. Vì hư không là không nên chẳng nhiếp trong ba đời. Vì Phật Tánh là thường nên chẳng nhiếp trong ba đời.
Này thiện nam tử! Đức Như Lai đã được vô thượng bồ đề, Đức Như Lai chỗ được Phật Tánh và tất cả Phật Pháp là thường trụ không biến đổi. Do nghĩa này nên không có ba đời dường như hư không.
Này thiện nam tử! Vì hư không là không nên chẳng phải trong chẳng phải ngoài. Vì Phật Tánh là thường trụ nên chẳng phải trong chẳng phải ngoài, do đây nên nói rằng Phật Tánh dường như hư không.
Này thiện nam tử! Nhưng trong đời chỗ không chướng ngại thời gọi là hư không.
Đức Như Lai được vô thượng bồ đề rồi, nói tất cả Phật Pháp đều không có chướng ngại, nên nói rằng Phật Tánh dường như hư không.
Bạch Thế Tôn! Phật Tánh và Niết Bàn của Như Lai chẳng nhiếp trong ba đời mà gọi là có, hư không cũng chẳng nhiếp trong ba đời, cớ sao chẳng được gọi là có ư?
Này thiện nam tử! Vì chẳng phải Niết Bàn gọi là Niết Bàn, vì chẳng phải Như Lai gọi là Như Lai, vì chẳng phải Phật Tánh gọi là Phật Tánh.
Thế nào gọi là chẳng phải Niết Bàn?
Nghĩa là tất cả phiền não những pháp hữu vi. Vì phá những phiền não hữu vi này mà gọi là Niết Bàn.
Thế nào là chẳng phải Như Lai?
Chính là nhất xiển đề nhẫn đến bậc Bích Chi Phật. Vì phá nhất xiển đề nhẫn đến Bích Chi Phật này mà gọi là Như Lai.
Thế nào là chẳng phải Phật Tánh?
Chính là tất cả vật vô tình như tường, vách, ngói, đá v.v… lìa những vật vô tình này gọi là Phật Tánh.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Bát Phật Danh Hiệu
Phật Thuyết Kinh Phóng Quang Bát Nhã - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Ma Ha Diễn
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - Kinh Vô Tránh Phân Biệt
Phật Thuyết Kinh Vô Minh La Sát Tập - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Thập Thiện Nghiệp đạo
Phật Thuyết Kinh Quán Phật Tam Muội Hải - Phẩm Bốn - Quán Phật Tâm - Tập Ba
Phật Thuyết Kinh Bát Nhã Ba La Mật - Phẩm Tám Mươi Tám - Phẩm Tát đà Ba Luân