Phật Thuyết Kinh đại Bát Niết Bàn - Phẩm Mười Hai - Phẩm Như Lai Tánh - Phần Hai

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương

PHẬT THUYẾT

KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương  

PHẨM MƯỜI HAI

PHẨM NHƯ LAI TÁNH  

PHẦN HAI  

Đức Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: Này thiện nam tử! Nay ông chẳng nên như hàng Thanh Văn, cùng hàng phàm phu phân biệt ngôi Tam Bảo. Nơi đại thừa đây không có tướng Tam Quy sai khác, vì trong Phật Tánh bèn có Pháp và Tăng. Nhân muốn hóa độ hàng Thanh Văn và phàm phu, nên phân biệt nói tướng Tam Quy sai khác.

Này thiện nam tử! Nếu muốn tùy thuận pháp thế gian, thời nên phân biệt có ba pháp quy y.

Này thiện nam tử! Bồ Tát nên suy nghĩ như thế này, nay thân của ta đây quy y nơi Phật, nếu chính nơi thân này đặng thành Phật Đạo, đã thành Phật rồi, chẳng nên cung kính lễ bái cúng dường các Đức Thế Tôn. Vì chư Phật đều bình đẳng. Khắp vì chúng sanh mà làm chỗ quy y.

Nếu muốn tôn trọng pháp thân Xá Lợi, thời nên lễ kính tháp miếu của Chư Phật, vì muốn hóa độ chúng sanh, cũng làm cho chúng sanh đối với thân của ta tưởng là tháp miếu mà lễ bái cúng dường. Những chúng sanh đó, lấy pháp thân của ta làm chỗ quy y.

Tất cả chúng sanh đều nương theo pháp tà ngụy chẳng chân thật, ta sẽ tuần tự vì chúng sanh nói pháp chân thật.

Nếu lại có chúng sanh nương theo phái chẳng phải chân Tăng, ta sẽ vì chúng sanh làm chỗ chân Tăng để chúng quy y.

Nếu có người phân biệt ba pháp quy y ta sẽ vì họ mà làm chỗ quy y duy nhất, không ba pháp sai khác.

Đối với hạng sanh manh, ta vì họ làm nhãn mục. Ta lại sẽ vì hàng Thanh Văn, Duyên Giác mà làm chỗ chân quy.

Này thiện nam tử! Như vậy, Bồ Tát vì vô lượng chúng sanh ác và những người trí mà làm Phật Sự.

Này thiện nam tử! Ví như người lúc ra trận chiến đấu, tự nghĩ rằng trong đội ngũ đây, ta là người thứ nhất, tất cả binh sĩ đều nương cậy nơi ta.

Cũng như Vương Tử suy nghĩ thế này, ta sẽ điều phục các Vương Tử khác, nối ngôi Đại Vương giữ gìn nghiệp bá chủ, để đặng tự tại, khiến các Vương Tử đều phải quy y. Vì thế nên chẳng được sanh tâm hạ liệt. Như Vương Tử, Vua và các quan cũng như vậy.

Này thiện nam tử! Bồ Tát cũng suy nghĩ như vậy: Thế nào ba sự cùng ta đồng một thể?

Này thiện nam tử! Đức Phật nói ba sự tức là Niết Bàn. Như Lai đó gọi là Vô Thương Sĩ. Ví như thân người, đầu là trên tất cả, chẳng đồng với tay chân lóng đốt.

Phật cũng như vậy, là bậc tôn thượng, chẳng phải pháp cùng Tăng. Vì muốn hóa độ các thế gian, nên thị hiện những tướng sai khác, ví như bậc thang kia.

Vì thế, nay ông chẳng nên như hàng phàm phu, nhận biết tướng ba pháp quy y sai khác. Đối với đại thừa, ông phải như dao bén mạnh mẽ quyết đoán.

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Thế Tôn! Tôi vẫn biết, nhưng cố ý hỏi, chẳng phải là không biết, tôi vì các vị Bồ Tát đại dõng mãnh, mà bạch hỏi chỗ thật hành thanh tịnh không nhơ, muốn Đức Như Lai vì các Bồ Tát tuyên nói những việc kỳ đặc, tuyên dương Kinh Điển Đại Thừa Phương Đẳng.

Đức Đại Bi Thế Tôn hôm nay đã khéo giải thuyết. Tôi cũng đã an trụ trong pháp đó. Chỗ thật hành thanh tịnh của Bồ Tát mà Phật đã nói đó, tức là tuyên thuyết Kinh Đại Niết Bàn.

Thế Tôn! Nay tôi cũng sẽ rộng vì chúng sanh diễn dương tạng Như Lai bí mật như vậy, cũng sẽ chứng biết chỗ Tam Quy chân thật. Nếu có chúng sanh nào có thể tin Kinh Đại Niết Bàn này, người đó thời có thể tự nhiên rõ thấu chỗ ba pháp quy y. Vì tạng Như Lai có Phật Tánh vậy.

Có người tuyên nói Kinh Điển này, thời đều nói rằng trong thân vẫn có Phật Tánh. Người này bèn chẳng cầu ba pháp quy y nơi đâu xa. Vì Đời vị lai đây, thân ta bèn sẽ thành tựu ngôi Tam Bảo. Vì thế nên hàng Thanh Văn, Duyên Giác vàn hững chúng sanh khác đều nương nơi ta mà cung kính lễ bái. Do nghĩa đó nên phải khéo học Kinh Điển đại thừa.

Phật Tánh như vậy chẳng thể nghĩ bàn, ba mươi hai tướng, tám mươi thứ tốt cũng chẳng thể nghĩ bàn.

Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: Lành thay! Lành thay! Này thiện nam tử! Ông đã thành tựu trí huệ rất sâu.

Nay ta sẽ lại vì ông nói pháp chứng nhập Tạng Như Lai.

Nếu ngã là có, thời là pháp thường chẳng rời nơi khổ. Nếu không có ngã, thời tu hạnh thanh tịnh không được lợi ích.

Nếu cho rằng các pháp đều không có ngã, đó là đoạn kiến, nếu cho rằng có ngã thời là thường kiến.

Nếu cho rằng tất cả hành pháp là vô thường, thời là đoạn kiến, cho rằng các hành pháp là thường, thời lại là thường kiến.

Nếu nói là khổ, thời là đoạn kiến, nếu nói là lạc, thời lại là thường kiến.

Tu tất cả pháp thường đó, thời sa nơi đoạn kiến, tu tất cả pháp đoạn đó, thời sa nơi thường kiến. Như bước đi, cần phải do chân trước, mới dời đặng chân sau. Người tu pháp thường, pháp đoạn, cũng lại như vậy, cần phải do nơi đoạn và thường.

Do nghĩ này, nên người tu các pháp khổ đều gọi là chẳng lành, người tu các pháp lạc, thời gọi là lành. Người tu các pháp vô ngã, thời thuộc về phiền não, người tu các pháp thường, thời gọi là tạng Như Lai.

Niết Bàn, không có nơi chốn. Tu những pháp vô thường, thời là tài vật, tu những pháp thường, gọi là Phật, Pháp, Tăng, và chánh giải thoát.

Nên biết Phật pháp trung đạo như vậy, xa lìa hai bên mà nói pháp chân thật. Người phàm phu ngu mê đối trong pháp đó không nghi, như người gầy yếu, được uống thuốc bổ, thời khí lực khỏe khoắn.

Những pháp hữu, vô, thể tánh chẳng nhất định. Ví như tứ đại tánh nó chẳng đồng, đều trái phản nhau. Lương y khéo biết tùy món đại nào phát bệnh mà điều chỉnh đó.

Này thiện nam tử! Cũng vậy, Đức Như Lai đối với các chúng sanh, cũng như vị lương y, rõ biết thể tướng sai khác của các phiền não mà dứt trừ, khai thị tạng Như Lai bí mật, Phật Tánh thanh tịnh thường trụ chẳng biến đổi. Nếu cho rằng có, thời lẽ ra trí chẳng nhiễm.

Nếu nói là không, bèn thành vọng ngữ. Nếu nói là có, lẽ ra chẳng nên nín lặng. Lại cũng chẳng nên hý luận cãi cọ, chỉ nên cầu được rõ biết chân tánh của các pháp.

Người phàm phu hý luận cãi cọ vì chẳng hiểu tạng Như Lai. Nếu nói pháp khổ, người ngu bèn cho thân là vô thường, chẳng có thể biết nơi thân có tánh lạc.

Nếu nói vô thường, người phàm phu chấp tất cả thân đều là vô thường, như ngói chưa hầm chín. Nếu là người trí nên phải quan sát, chẳng nên nói tất cả đều vô thường, vì nơi thân của ta có chủng tử Phật Tánh.

Nếu nói vô ngã, người phàm phu sẽ cho là tất cả Phật, pháp đều không có ngã. Người trí nên phải quan sát vô ngã là giả danh chẳng thật, rõ biết n hư vậy chẳng nên sanh nghi.

Nếu nói tạng Như Lai là không tịch, người phàm phu nghe như thế sanh kiến chấp đoạn diệt. Người trí nên phải quan sát Như Lai là thường, không có biến đổi.

Nếu nói giải thoát dụ như huyễn hoá, người phàm phu sẽ cho rằng chứng đặng giải thoát tức là dứt mất. Người trí nên phải quan sát Đức Như Lai giải thoát, dầu có đến đi, nhưng vẫn thường trụ không biến đổi.

Nếu nói vô minh làm nhân duyên mà có các hành pháp, người phàm phu liền phân biệt tưởng rằng có hai pháp: Minh đến vô minh. Người trí rõ biết tánh đó vốn không có hai. Tánh không hai đó tức là thật tánh.

Nếu nói các hành làm nhân duyên có ra thức, người phàm phu cho rằng có hai: Hành cùng thức. Người trí rõ biết tánh đó không hai. Tánh không hai đó tức là thật tánh. Nếu nói thập thiện, thập ác có thể tạo tác, không thể tạo tác, đường lành, đường dữ, pháp lành, pháp dữ, người phàm phu nghe đó cho là có hai, người trí rõ biết tánh đó không hai. Tánh không hai đó tức là thật tánh.

Nếu nói nên tu tất cả pháp khổ, phàm phu cho rằng có hai, người trí rõ biết tánh kia không hai, tánh không hai đó tức là thật tánh.

Nếu nói tất cả hành pháp là vô thường thời tạng Như Lai cũng là vô thường, phàm phu cho rằng có hai, người trí rõ biết tánh đó không hai, tánh không hai đó tức là thật tánh.

Nếu nói tất cả pháp vô ngã, tạng Như Lai cũng không có ngã, phàm phu cho rằng có hai, người trí rõ biết tánh đó không hai, tánh không hai đó tức là thật tánh.

Ngã với vô ngã nơi tánh không có hai thứ. Tạng Như Lai, nghĩa tánh vô lượng vô biên như vậy, là chỗ mà chư Phật đều tán thán, hôm nay ta ở nơi trong Kinh thành tựu tất cả công đức này đều đã nói rồi.

Này thiện nam tử! Ngã cùng vô ngã tánh và tướng không có hai thứ, ông phải trân trọng thọ trì như vậy, ông cũng phải ghi nhớ giữ gìn Kinh Điển này. Như ta ngày trước trong Kinh Đại Bát Nhã cũng nói ngã và vô ngã không có hai thứ.

Này thiện nam tử! Như do sữa thành lạc, do lạc thành sanh tô, do sanh tô thành thục tô, do thục tô đặng chất Đề Hồ. Chất lạc đó là từ sữa sanh ra, hay là nó tự sanh, hoặc do cái khác sanh ư, nhẫn đến Đề Hồ cũng lại như vậy.

Nếu từ cái khác sanh, thời là lẽ ra chẳng phải do sữa mà thành. Nếu chẳng phải từ nơi sữa sanh, thời sữa thành vô dụng đối với lạc, bởi sữa vốn không có lạc.

Nếu lạc, tự nó sanh lấy nó, lẽ ra chẳng từ sữa lần lần biến thành lạc. Nếu lần lần biến thành, thời là chẳng sanh chung. Nếu chẳng sanh chung thời cả năm thứ không đồng một thời. Dầu chẳng đồng một thời nhưng quyết định chẳng phải từ nơi chỗ khác mà có

Phải biết trong chất sữa đã có tướng của chất lạc. Vì nhiều vị ngọt nên chẳng thể tự biến, Nhẫn đến chất Đề Hồ cũng lại như vậy.

Do con bò cái ăn cỏ, uống nước, huyết mạch chuyển biến mà đặng có sữa. Nếu nó ăn cỏ ngọt thời sữa nó nhiều vị ngọt. Nếu nó ăn cỏ đắng, thời sữa nó có lẫn vị đắng. Núi Tuyết có thứ cỏ tên là Phì Nhị. Bò cái ăn cỏ Phì Nhị, thời đặng thuần chất Đề hồ, không có những màu xanh, vàng, đỏ, trắng, đen.

Do cỏ lúa làm nhân duyên mà sữa bò có màu vị khác nhau. Cũng vậy, các chúng sanh do minh cùng vô minh, vì nghiệp làm nhân duyên mà sanh có hai tướng. Nếu vô minh chuyển thời biến làm minh. Tất cả những pháp thiện, bất thiện, v.v…, cũng lại như vậy, không có hai thứ.

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Thế Tôn! Như lời Phật nói, trong sữa có tướng lạc, nghĩa đó như thế nào?

Thế Tôn! Nếu nói rằng trong sữa quyết định có tướng lạc, do vì vi tế chẳng thấy được, thế sao lại nói từ nơi sữa mà thành lạc. Phàm trước vốn không mà nay có thời gọi đó là sanh. Như lạc đã vốn có, sao lại nói là sanh. Nếu nói trong sữa quyết định có tướng lạc, thời trong cỏ lúa lẽ ra cũng có sữa, và trong sữa lẽ ra cũng có cỏ lúa.

Nếu nói trong sữa quyết định không có lạc, thế sao nhân sữa mà đặng thành lạc. Nếu trước vốn không, sau mới sanh ra có, thời cớ gì trong sữa chẳng sanh ra cỏ lúa?

Thiện Nam Tử! Chẳng nên nói quyết định trong sữa có lạc hay trong sữa không lạc, cũng chẳng nên nói từ nơi khác mà sanh. Nếu nói trong sữa quyết định có lạc, thời chất và vị của hai thứ sao lại khác nhau. Vì thế nên chẳng nên nói trong sữa quyết định có chất lạc.

Nếu nói trong sữa quyết định không có lạc, cớ sao trong sữa chẳng sanh vật khác. Đem chất độc pha vào trong sữa, lúc sữa đó thành lạc, thời chất lạc đó giết chết người, vì thế nên chẳng nên nói rằng trong sữa quyết định không có chất lạc.

Nếu nói chất lạc từ nơi khác mà sanh, thời cớ gì trong nước lã chẳng sanh chất lạc, mà phải từ nơi sữa, vì thế nên chẳng nên nói chất lạc từ nơi khác mà sanh.

Này thiện nam tử! Bò cái kia ăn cỏ tiêu hoá biến thành bạch huyết, do phước lực của chúng sanh, cỏ huyết biến thành sữa. Sữa này dầu từ nơi cỏ huyết mà ra, nhưng chẳng đặng nói là hai thứ, chỉ đặng gọi là từ nhân duyên mà sanh. Chất lạc, nhẫn đến Đề Hồ cũng lại như vậy.

Do nhân duyên nên sau khi sữa mất biến thành chất lạc, ủ đông, hâm nóng, đó là nhân duyên. Nhẫn đến Đề hồ cũng lại như vậy. Vì thế nên chẳng đặng nói quyết định rằng trong sữa không có tướng lạc. Nếu nói từ nơi khác mà sanh, thời ngoài sữa không do đâu để có chất lạc.

Này thiện nam tử! Minh cùng Vô minh cũng lại như vậy. Nếu chung với phiền não thời gọi là vô minh, nếu chung với tất cả pháp lành thời gọi là minh.

Do đó nên ta nói không có hai tướng. Vì thế nên trước kia ta nói bò cái ăn cỏ Phì Nhị ở núi Tuyết, thời sanh thuần chất Đề Hồ. Phật Tánh cũng vậy.

Này thiện nam tử! Do vì phiền não che đậy nên chúng sanh chẳng thấy Phật Tánh, như người phước bạc chẳng thấy được cỏ Phì Nhị. Như trong biển lớn, dầu đồng một vị mặn, nhưng trong đó cũng có nước ngọt ngon, vị đồng như sữa. Như nơi núi Tuyết, dầu sanh nhiều cỏ thuốc, nhưng cũng có cỏ độc.

Thân của các chúng sanh cũng lại như vậy, dầu có giống rắn độc tứ đại, nhưng trong đó cũng có diệu dược, tức là Phật Tánh. Phật Tánh chẳng phải là pháp tạo tác làm ra, chỉ vì phiền não khách trần che khuất, nếu chúng sanh nào dứt trừ được phiền não, thời liền thấy được Phật Tánh thành đạo vô thượng.

Ví như giữa Hư Không, giăng mây nổi sấm, trên ngà của tất cả voi đều sanh bông. Nếu không có sấm nổ, thời bông không sanh.

Phật Tánh của chúng sanh cũng lại như vậy, thường bị tất cả phiền não che khuất nên chẳng thấy được. Vì thế nên ta nói chúng sanh không có ngã.

Nếu được nghe Kinh Điển Đại Niết Bàn vi diệu này, thời được thấy Phật Tánh như bông hiện trên ngà voi. Dầu nghe tất cả Tam Muội trong Khế Kinh, mà chẳng nghe Kinh Đại Niết Bàn này, thời chẳng biết được tướng Như Lai vi diệu. Như lúc không có tiếng sấm, thời chẳng thấy được bông trên ngà voi.

Nếu được nghe Kinh này rồi, liền biết tạng Phật Tánh của tất cả Như Lai nói. Như trời sấm thấy bông trên ngà voi. Được nghe Kinh này liền biết tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh.

Do nghĩa trên đây, nên nói Đại Niết Bàn là tạng Như Lai thêm lớn Pháp Thân, như lúc trời sấm, bông trên ngà voi nhờ đó mà được sanh thêm.

Nếu có thiện nam, tín nữ, có thể tập học Kinh Điển vi diệu Đại Niết Bàn này, nên biết những người đây có thể báo được ân Phật, thật là đệ tử của Phật.

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật rằng: Thế Tôn! Phật Tánh như đã nói rất sâu, khó thấy, khó vào, hàng Thanh Văn, Duyên Giác không thể đến được.

Phật nói: Này thiện nam tử! Đúng như lời ông vừa khen, chẳng trái lời nói của ta.

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Thế Tôn! Phật Tánh ấy rất sâu, khó thấy, khó vào như thế nào?

Phật nói: Này thiện nam tử! Như trăm người mù đến lương y để trị bệnh mắt.

Lúc đó lương y dùng kim vàng lột màng mắt của họ, lột xong, giơ một ngón tay hỏi rằng: Thấy không?

Người mù đáp rằng: Tôi vẫn chưa thấy. Lương y lại giơ hai ngón, ba ngón. Người mù mới nói rằng thấy mờ mờ.

Này thiện nam tử! Kinh Điển Đại Niết Bàn vi diệu này, lúc Đức Như Lai chưa nói cũng lại như vậy. Vô lượng Bồ Tát dầu đầy đủ thật hành các Ba la mật, nhẫn đến bậc Thập Trụ vẫn còn chưa thấy được Phật Tánh. Lúc Như Lai đã nói, mới thấy được chút ít.

Lúc Bồ Tát này đã được thấy, đều nói rằng: Thế Tôn! Lạ lùng thay, chúng tôi lưu chuyển thọ vô lượng sanh tử, thường bị vô ngã làm mê lầm.

Này thiện nam tử! Bồ Tát này lên bậc Thập Địa còn chưa thấy được Phật Tánh rõ ràng, huống là hàng Thanh Văn, Duyên Giác mà có thể thấy đặng.

Này thiện nam tử! Ví như có người ngước mặt nhìn đàn chim nhạn trên hư không, nhìn kỹ phưởng phất thấy dạng bầy nhạn. Bậc Thập Trụ Bồ Tát đối nơi Phật Tánh, thấy biết được chút ít cũng lại như vậy, huống là hàng Thanh Văn, Duyên Giác mà thấy biết được.

Này thiện nam tử! Ví như người say, đi trên đường xa, ngó thấy mập mờ. Bậc Thập Trụ Bồ Tát đối với Phật Tánh thấy biết được ít phần cũng như vậy.

Này thiện nam tử! Như người khát nước, đi trong đồng trống, khắp nơi tìm nước, thấy có lùm cây, trong lùm có chim bạch hạc, người đó bị cơn khát bức ngặt, mê muội chẳng phân biệt được là cây hay là nước. Đến lúc nhìn kỹ mới biết là chim bạch hạc cùng với lùm cây. Bậc Thập Trụ Bồ Tát, đối với Phật Tánh, thấy biết phần ít cũng như vậy.

Này thiện nam tử! Ví như có người ở trong biển lớn, nhẫn đến trăm ngàn do tuần, trông thấy chiếc thuyền lớn ở ngoài khơi xa, liền nghĩ rằng: Đó là chiếc thuyền hay là khoảng không. Nhìn lâu, trong tâm quyết định biết là thuyền lớn. Bậc Thập Trụ Bồ Tát, ở trong tự thân, thấy Phật Tánh cũng như vậy.

Này thiện nam tử! Ví như vị Vương Tử, thân rất yếu đuối, dạo chơi suốt đêm, đến sáng ngày sau, mắt mờ thấy không được rõ. Bậc Thập Trụ Bồ Tát dầu ở nơi thân mình thấy được Phật Tánh nhưng chưa được rõ ràng cũng như vậy.

Này thiện nam tử! Ví như quan lại, vì công sự suốt đêm trở về nhà chớp nhoáng thấy bầy trâu, liền nghĩ rằng: Đó là trâu ư, hay là dãy nhà, nhìn lâu, dầu nhận là trâu mà còn chưa định chắc. Bậc Thập Trụ Bồ Tát, dầu ở nơi thân mình thấy Phật Tánh, chưa có thể định chắc cũng như vậy.

Này thiện nam tử! Như Tỳ Kheo trì giới, nhìn trong bát nước không có trùng, mà thấy tướng trùng, liền nghĩ rằng: Trong nước đây là trùng hay bụi đất, nhìn lâu, dầu biết là bụi nhưng chẳng rõ ràng. Bậc Thập Trụ Bồ Tát, ở trong thân mình thấy Phật Tánh chẳng được rõ ràng lắm cũng như vậy.

Này thiện nam tử! Ví như có người, xa thấy đứa trẻ đứng trong bóng tối, liền nghĩ rằng: Đó là con vật, là chim, hay là người?

Nhìn lâu, dầu nhận thấy là đứa trẻ, nhưng vẫn chẳng rõ ràng. Bậc Thập Trụ Bồ Tát ở nơi thân mình thấy Phật Tánh chẳng rõ ràng lắm cũng như vậy.

Này thiện nam tử! Ví như có người ở trong đêm tối, thấy bức họa tượng Bồ Tát liền nghĩ rằng: Đây là tượng Bồ Tát hay là tượng Thiên Thần, nhìn lâu dầu nhận là tượng Bồ Tát, nhưng chẳng rõ ràng. Bậc Thập Trụ Bồ Tát ở nơi thân mình thấy Phật Tánh chẳng rõ ràng lắm cũng như vậy.

Này thiện nam tử! Phật Tánh ấy rất sâu như vậy, khó biết khó thấy, chỉ Phật biết rõ, chẳng phải hàng Thanh Văn, Duyên Giác đến được. Người trí phải quan sát như vậy để rõ biết Phật Tánh.

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Phật Tánh vi tế khó thấy như vậy, thế sao nhục nhãn mà có thể thấy được.

Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: Này thiện nam tử! Như Trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng kia, cũng chẳng phải hàng Nhị Thừa biết được, chỉ tin theo Khế Kinh mà biết.

Này thiện nam tử! Hàng Thanh Văn, Duyên Giác tin thuận theo Kinh Đại Niết Bàn này tự biết thân mình có Phật Tánh.

Này thiện nam tử! Vì thế nên phải tinh tấn tu tập Kinh Đại Niết Bàn. Phật Tánh đó chỉ Phật biết rõ, chẳng phải hàng Thanh Văn, Duyên Giác đến được.

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Thế Tôn! Hàng chúng sanh phàm phu chẳng phải Thánh đều nói có ngã.

Phật nói: Ví như hai người làm bạn thân nhau: Một người là Vương Tử, một người là dân hèn, hai người đó thường qua lại nhau, lúc đó người nghèo thấy Vương Tử có một con dao tốt, trong lòng thích muốn, thời gian sau, Vương Tử mang dao trốn qua nước khác.

Một hôm, người dân hèn ngủ nhờ nhà người khác, giữa giấc ngủ mơ nói con dao! Con dao! Người nhà nghe được bắt nộp cho Vua.

Vua gạn hỏi: Nhà ngươi nói con dao, nay ở đâu?

Người dân bèn thuật rõ việc trước. Nay nhà Vua dầu giết thần, banh xẻ tay chân cũng không thể tìm được dao. Thần cùng Vương Tử vốn là bạn thân, trước kia, dầu mắt được thấy con dao, nhưng còn không dám chạm đến, huống lại cố ý lấy.

Vua lại hỏi: Lúc nhà ngươi thấy dao, hình dạng giống thứ gì.

Người dân bèn thưa: Tâu Đại Vương, thần thấy con dao ấy giống như sừng dê đen.

Vua nghe xong, vui mừng cả cười, bảo rằng: Nhà ngươi chớ sợ, ta tha cho ngươi, trong kho tàng của ta, đều không có thứ dao ấy, huống là ngươi thấy con dao nơi Vương Tử.

Lúc đó nhà Vua lại hỏi các quan: Các khanh từng thấy con dao đó chăng?

Nói xong Vua liền băng. Triều thần liền lập Vương Tử khác lên làm Vua.

Tân Vương lại hỏi các quan: Các khanh từng thấy con dao đó chăng?

Hình dáng nó như thế nào?

Các quan đồng tâu: Chúng thần từng thấy hình nó như sừng dê đen.

Vua nói: Trong kho tàng của ta, chỗ nào mà có thứ dao hình dạng như vậy?

Lần lượt bốn vị tân Vương tra tìm con dao ấy đều chẳng đặng. Sau đó, vị Vương Tử đào vong ngày trước, trở về nước, được tôn làm Vua.

Khi lên ngôi xong, tân Vương này lại hỏi các quan: Các khanh có thấy con dao đó chăng?

Hình dạng nó thế nào?

Các quan tâu: Chúng tôi đều thấy. Rồi đua nhau trình bày hình dáng của con dao. Người thì nói sắc dao thanh tịnh như hoa sen xanh. Người lại nói hình như sừng dê. Người thì nói dao màu hồng đỏ như lửa. Người lại nói dao đen tuyền như rắn đen.

Nhà Vua cả cười bảo: Các khanh đều chẳng thấy biết hình dáng thật của con dao của ta.

Này thiện nam tử! Bồ Tát xuất hiện nơi đời nói tướng chân thiệt của ngã cũng như vậy. Nói xong bỏ đi. Như Vương Tử mang con dao tốt trốn qua nước khác. Người phàm phu ngu mê cho rằng tất cả đều có ngã, có ngã.

Như người dân hèn ngũ nhờ nhà người khác, mơ nói con dao! Con dao! Hàng Thanh Văn, Duyên Giác hỏi các chúng sanh, tướng của ngã như thế nào?

Đáp rằng: Tôi thấy tướng của ngã lớn bằng ngón tay cái. Có kẻ nói, như hột gạo. Có kẻ nói như hột cỏ. Cũng có kẽ nói tướng của ngã ở trong tâm, sáng rỡ như mặt Trời.

Những chúng sanh đó đều chẳng biết tướng của ngã. Như các quan chẳng biết hình dáng của con dao.

Bồ Tát nói tướng trạng của ngã, hàng phàm phu chẳng rõ biết, vọng tưởng ra các hình tướng của ngã, như những người nói hình dáng của con dao, giống như sừng dê đen v.v…

Các hạng phàm phu đó, tuần tự nối nhau mà sanh những tà kiến. Vì dứt những tà kiến đó, nên Đức Như Lai hiện ra đời, nói pháp vô ngã.

Vương Tử bảo các quan: Trong kho tàng của ta không có thứ dao như vậy.

Này thiện nam tử! Hôm nay Đức Như Lai nói ngã chân thật gọi là Phật Tánh. Phật Tánh như vậy ở trong Phật Pháp của ta, như con dao tốt kia.

Thiện Nam Tử! Nếu có kẻ phàm phu, có thể nói đúng, đó chính là do vì tùy thuận Phật Pháp vô thượng. Nếu có người khéo phân biệt tùy thuận tuyên nói như đây, nên biết người đó chính là Bồ Tát.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần