Phật Thuyết Kinh đại Bi Không Trí Kim Cương đại Giáo Vương Nghi Quỹ - Phần Tám - đại Tương ứng Luân
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
PHẬT THUYẾT KINH
ĐẠI BI KHÔNG TRÍ KIM CƯƠNG
ĐẠI GIÁO VƯƠNG NGHI QUỸ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
PHẦN TÁM
ĐẠI TƯƠNG ỨNG LUÂN
Tiếp đến Tương Ứng Luân Yoginī cakra.
Nay ta sẽ rộng nói
Đầu tiên trong không giới.
Hư không làm quán tưởng như vậy:
Thứ tự trong Luân Đàn
Sinh ra các chúng Thánh
Ở góc chung quanh luân
Quán tưởng đại phong luân
Thủy luân như thứ tự
Hỏa đại cũng như thế
Sinh ra chánh pháp luân
Trong mát, không bệnh não
Tám cánh, đủ đài nhụy
Như tướng Tam Giác Đàn
Rỗng lặng trong một Tâm
Bày vị trí Hiền Thánh
Như vành trăng trong sạch
Trong đấy an chủng trí
Sau dùng mặt trời che
Gom hai loại đại lạc. Mahā sukha
Dùng hai loại tương ứng
Ngau lý. Gaurī khéo xưng tán
Nguyệt. Mặt trăng đại viên trí chiếu ādarśa jñāna: Đại viên cảnh trí.
Với bình đẳng tính.
Samatā jñāna: Bình đẳng tính trí khác.
Hoặc tiêu xí Bản Tôn
Với chủng tử, pháp vị. Vị trí của pháp.
Nói danh diệu quán sát.
Pratyavek a ā jñāna: Diệu quán sát trí.
Chỉ trong các tác dụng
Tên thành sở tác trí. K tyānu hāna jñāna
Với thanh tịnh pháp tính. Dharma dhātu svabhāva jñāna
Thứ tự năm trí. Pañca jñānāni ấy
Quán tưởng, như vậy nói
Lại người tu Du Già
Nơi Nhật, Nguyệt, Thời Phần
Với Kim Cương Tát Đỏa. Vajra satva
Cột niệm đều bình đẳng
Văn tự sinh ra thân
Trụ nghĩa Hồng phát tra. Hū pha
Ảnh tượng Tát Đỏa ấy
Nhóm chân thật sinh ra
Tác Ý mà quán tưởng
Như Tiêu Xí Luân trước.
Dùng Ma Ni Diệu Quang ánh sáng màu nhiệm của ngọc Ma Ni
Tuệ, phương tiện, tự tính
Tất cả mau thành tựu.
Bấy giờ Đức Phật bảo Kim Cương Tạng Bồ Tát rằng: Nhật, Nguyệt, Thời Phần ấy là dùng Thắng Tuệ để có thể chọn lựa. Đầu tiên là Ngao Lý Minh Phi. Gaurī yoginī phân biệt sắc tướng mà đều có sai khác. Ở năm vị trí chính giữa, an năm vị Minh Phi. Pañca yoginī tức tự tính của năm uẩn. Pañca skandha.
Người tu Du Già nên quán như vậy: Đầu tiên, phương Đế Thích. Phương Đông an Kim Cương Minh Phi. Vajrā yoginī. Tiếp đến phương Diễm Ma. Phương Nam an Tối Sơ Ngao Lý Minh Phi.
Adhi gaurīyoginī. Ở phương Thủy Thiên. Phương Tây an Phộc Lý Minh Phi. Vāli yoginī. Phương Cô Vĩ La. Phương Bắc an Kim Cương Noa Cát Ni Minh Phi. Vajra āki īyoginī. Phương chính giữa an Vô Ngã Minh Phi. Nairātmyā yoginī.
Tiếp ở Ngoại Viện an tám vị Minh Phi là Ngao Lý Minh Phi. Gaurī yoginī, Tưu Lý Minh Phi. Caurī yoginī, Vĩ Đa Lý Minh Phi. Vetalī yoginī, Khát Tam Ma Lý Minh Phi. Ghasmarī yoginī, Thập Cát Tây Minh Phi. Puka ī yoginī, Thiết Phộc Lý Minh Phi Śavarī yoginī, Tán Noa Lý Minh Phi. Ca alī yoginī, Nỗ Nhĩ Ni Minh Phi omvinī yoginī. Ở phương trên phương dưới an Không Hành Minh Phi. Khacarī yogi ī với Địa Cư Minh Phi. Bhūcarī yogi ī.
Bậc trụ Đại Bi Không Trí Luân đều ở ba cõi, theo mình tự quán tưởng làm nơi biến hiện. Các Minh Phi này đều dùng màu đen, tướng đại phẫn nộ, dùng năm Ấn lúc trước làm chỗ trang nghiêm, đều có một mặt.
Mặt có ba mắt, hai tay trái phải cầm cây đao báu với vật khí Cát Ba La. Đầu lâu. Năm Ấn lúc trước là bánh xe, vòng đeo tay, vòng xuyến báu, vòng hoa báu, dây đai báu… dùng năm Phật thanh tịnh cho nên năm.
Ấn thanh tịnh.
Các Minh Phi này đã nói như trên.
Vô Ngã Minh Phi: Tay phải cầm cây đao báu, tay trái cầm vật khí Cát Ba La với cây trượng Kim Cương Khát Thung Nga. Vajra kha va ga, áo da cọp, đức trên hoa sen, bàn chân như thế múa, ánh sáng Trí rực rỡ như đám lửa lớn, búi tóc màu vàng làm tướng phẫn nộ.
Cầm cây đao báu là chặt đứt tất cả nhóm mạn.
Māna: Tâm tự thị khinh miệt người khác, quá mạn.
Ati māna: Tâm cống cao tự đại.
Vật khí Cát Ba La là phá bốn Ma khiến cho khéo thành tựu.
Cây trượng Kim Cương Khát Thung Nga tức là Tính Không Trí với các phương tiện.
Đối với Nghi Quỹ này, người quán tưởng Luân Pháp Thành Tựu, đầu tiên quán tưởng màu đen, thứ hai là mà đen, thứ ba là màu vàng, thứ tư là màu xanh lục, thứ năm là màu xanh, thứ sáu là màu trắng... Rồi ở sáu phần quán tưởng tương ứng cũng lại chán lìa.
Nói: Sinh ra thứ tự chẳng phải là sinh ra thứ tự, đối với y chỉ của hai loại bình đẳng là Kim Cương Bộ tùy theo sự sinh diệt ấy đã nói pháp.
Cho nên Chư Phật Thế Tôn nói là quán tưởng: Không Giới, Liên Hoa, Chủng Trí…Tam Ma Bát Đề.
Samāpatti: Đẳng chí, chính thọ, chính định hiện tiền với diệu lạc luân. Thứ tự như vậy là tự lãnh nạp từ tâm bồ đề. Bodhi citta quán tưởng như vậy sinh ra Hiền Thánh, hai loại Luân ấy thảy đều sinh khởi. Câu sinh.
Thắng tuệ đã nói là nghĩa sinh ra, phương tiện đã nói là dụng của sĩ phu. Sau đó đối với hai loại thắng nghĩa, thế tục… phân biệt hai loại Luân ấy nói Thắng Tuệ Luân như Diệu Lạc. Trong đấy, nơi vô lượng nghĩa phân biệt có bốn, bốn loại đó tức câu sinh phần sinh ra thứ tự.
1. Hỷ. Vui mừng: Là đối với Tiên Hành lúc trước có chút phần Diệu Lạc tiến cầu.
2. Thắng Hỷ: Đối với tương ứng này dần dần khiến tăng hơn, nói Diệu Lạc.
3. Ly Hỷ: Đối với Diệu Lạc này, chán lìa các căn liền trừ tham nhiễm, không có chúng sinh có thể gây hảo cảm hứng thú ái hỷ.
4. Câu Sinh Hỷ: Tất cả quán tưởng bình đẳng chân thật.
Lại Diệu Lạc này có đủ các phương tiện, chỉ bên trong thắng hỷ xa lìa như thật, ngoài ra chẳng nói lại, ở trong phi hữu không thể đắc được. Đối với người khác hiểu rõ hết thảy phước của thân, tôn trọng khen ngợi, phương tiện tiếp cận các người có đức mỏng.
Kẻ ấy ít ngủ say, hoặc ăn hoặc uống là cảnh nghĩ nhớ với tất cả điều còn lại như chỗ đã nhìn thấy, đối với thượng trung hạ chân thật quán tưởng một vị bình đẳng, đừng nên đối với phẩm Hạ Liệt mà lược nghĩa của câu, đối với phẩm Tối Thượng nên làm quán tưởng, đối với phẩm Trung lìa hai loại này.
Như vật sáu căn hết thảy cự động dừng nghỉ đều tận hết không có dư sót cộng với chỗ cần làm, ngang bằng một Vị. Diệu Lạc Luân ấy ngang bằng đồng với mở bày quán tưởng chân thật.
Điều đã nói như vậy sinh ra ba cõi. Tam hữu với các thế gian như tất cả quán chiếu mà ta đã thấy. Thế nên đối với Tam Ma Hứ Đa.
Samāhita: Đẳng dẫn, thắng định quyết định tu tập, nơi thành tựu này không có nghi hoặc nữa.
Giả sử đối với Đại Ấn quyết định tiến cầu, quán tưởng các chỗ tác ý của thế gian đều chẳng phải là quán tưởng. Phi quán tưởng, quán các pháp trí cũng chẳng phải là quán tưởng. Động vật, thực vật, cành, lá, củ, cỏ ở các nơi với thân của ta, thân của người, tất cả sắc tướng là đại diệu lạc đều chẳng phải là hữu tính.
Nơi mà mình đã đạt được thành tựu quán tưởng, nghiệp dụng đã sinh ra như Vương Giả Tôn, tùy mình lấy, bỏ tất cả không có ngăn ngại. Tham lam. Tham, giận dữ. Sân, ganh tỵ. Tật đố với ngã mạn, các nơi yêu thích cho đến trong mười sáu phần, chẳng theo kịp một phần.
Dùng tự tính phương tiện của trí tuệ sinh ra các pháp với ba đời ấy giống như hư không. Đức Như Lai đã nói Diệu Lạc Luân ấy, ở một sát na mà được giáng phục. Đối với cảnh giới của mình ắt hay vứt bỏ. Các trí liễu ngộ với đường ngữ ngôn, thứ tự gia trì chỉ dùng hướng tới nhất thiết trí trí.
Sarva jñā Jñāna, hiểu thấu ta người. Đất, nước, lửa, gió với hư không còn lại, ở khoảng sát na đều đồng một tướng, lìa các phân biệt, chẳng bị sự xâm đoạt quấy nhiễu của ta người, thành tựu các nhóm nghiệp dụng của trì minh. Vidya dhāra.
Giả sử lại ở trong sinh tử nhưng thường thanh tịnh ví như dòng sông cũng như đèn đuốc ở trong ngày đêm chân thật chẳng đứt đoạn. Kẻ không có trí kia đối với Nghi Quỹ đó hư vọng đặt bày mệt nhọc, đời này đời khác không có thể thành tựu.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Vô Minh La Sát Tập - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh ương Quật Ma La - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Dị Bà La Môn
Phật Thuyết Kinh Trung A Hàm - Phẩm Bảy - Phẩm Trường Thọ Vương - Kinh Vô Thích
Phật Thuyết Kinh Sinh - đức Phật Thuyết Giảng Về Chuyện Người đệ Tử Qua đời
Phật Thuyết Kinh Tương ưng Bộ - Tập Ba - Thiên Uẩn - Chương Năm - Tương ưng Sanh - Phần Mười - Uẩn
Phật Thuyết Kinh Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư đồng Tử đà La Ni - Phần Một