Phật Thuyết Kinh đại Phương đẳng đảnh Vương - Phần Một

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:04 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn

PHẬT THUYẾT KINH

ĐẠI PHƯƠNG ĐẲNG ĐẢNH VƯƠNG

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn  

PHẦN MỘT  

Nghe như vậy!

Một thời, Đức Phật du hóa ở vườn cây Nại Thị thuộc thành Duy Da Ly, cùng với đại chúng gồm tám trăm vị Tỳ Kheo, một vạn vị Bồ Tát.

Tất cả các vị đều thấu đạt thần thông của Bậc Đại Thánh, đều chứng đắc Đà La Ni, biện tài vô ngại, thâu tóm trí tuệ của ba đời, cho đến trí Tam đạt: Không, vô tướng, vô nguyện mà không chấp vào quả vị chứng được, thực hành tâm từ rộng lớn thương khắp tất cả, không chấp ngã, ngã sở.

Do dốc đạt được giải thoát nên thông suốt tất cả các pháp trong ba đời: Quá khứ, hiện tại, vị lai đều như huyễn hóa, mộng ảo, tiếng vang, ảnh trong gương, dợn nắng, như thân chuối, bọt nước, bong bóng nước, hiểu rõ ba cõi thật không hiện hữu, theo nhân duyên mà sinh ra, có lợi, không lợi, hoặc khen, hoặc chê, được khen hay không được khen, hoặc khổ, hoặc vui, đều vượt qua các pháp hiện có của thế gian.

Dùng phương tiện quyền xảo tuy qua lại nơi ba đường ác nhưng luôn vượt khỏi Dục Giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới, thông suốt nghĩa lý của đạo, cứu độ chúng sinh.

Chư Thiên đến cầu xin học hỏi, thọ trì pháp thâm diệu thì mở bày trí tuệ để được hội nhập nơi cửa đạo.

Bấy giờ, vào buổi sáng, Đức Thế Tôn mặc y mang bát vào thành Duy Da Ly khất thực, đến nhà Trưởng Giả Duy Ma Cật. Con trai của Trưởng Giả Duy Ma Cật tên là Thiện Tư, sáng sớm tắm rửa sạch sẽ, dùng hương thơm xoa vào thân, mặc y phục mới, tay cầm hoa sen cùng với vợ con thuởng thức ca nhạc, vui chơi trên lầu.

Do phước đức vun trồng từ đời trước đã cảm ứng nên từ xa thấy Đức Phật và đại chúng vào thành khất thực, hiện những điềm lành, Đồng Tử liền nói với vợ bằng kệ, thán tán công đức của Thế Tôn:

Âm thanh nghe hòa nhã

Đồng thời cùng vang lên

Kỹ nhạc từ chúng hội

Vong đến tận lầu đài.

Quyết chắc Đại Hùng đến

Đấng cứu đời sáng chói

Nay dùng bàn chân phải

Đặt yên lên cổng thành.

Vô số loài chim, thú

Phát ra tiếng từ bi

Từ xưa chưa từng nghe

Âm thanh vi diệu này.

Biết chắc Đại Hùng đến

Dẫn đường lợi chúng sinh

Nay đưa bàn chân phải

Đặt yên lên cổng thành.

Ngày nay con thấy Phật

Như thân báu anh lạc

Nhạc tự vang không tấu

Lòng vui thật nhiệm mầu.

Ba ngàn Thánh không nghi

Đức trang nghiêm thanh tịnh

Tất dùng bàn chân phải

Đặt yên lên cổng thành.

Ví như có bát lớn

Chứa hết nước ao hồ

Nghe âm thanh điều hòa

Biến khắp các cõi nước.

Biết rằng Đức Thế Tôn

Đại Thánh phóng hào quang

Ngài chỉ bày muôn loài

Chắc chắc sẽ vào thành.

Thần thông hóa chúng sinh

Như hoa quả tươi tốt

Ngần ấy thứ hương sắc

Tỏa khắp thơm ngào ngạt.

Quyết chắc Đức Thế Tôn

Thệ nguyện vốn đã lập

Nay dùng bàn chân phải

Đặt yên lên cổng thành.

Chiếu soi đến hư không

Khắp cùng cả Trời đất

Che khuất ánh Mặt Trời

Hoàn toàn không ánh sáng.

Nhất định Thế Tôn đến

Hiện oai lực sáng chói

Nay dùng bàn chân phải

Giẫm lên nơi cổng thành.

Giống như hàng Trời, người

Ở giữa cõi hư không

Những người theo sau Phật

Như Trời hầu Phạm Thiên.

Xót thương đời không nghi

Thế Tôn bậc dẫn đường

Nay dùng bàn chân phải

Giẫm lên nơi cổng thành.

Người trong thành xem biết

Phát tâm từ không hận

Như cha mẹ con cháu

Đều cùng nhau luận bàn

Đức sáng luôn chiếu soi

Phước uy tự trang nghiêm

Nay dùng bàn chân phải

Đặt yên lên cổng thành.

Thấy nam, nữ, lớn, nhỏ

Đều cầm nhiều thứ hoa

Chắp tay hướng về Phật

Vui mừng tung rải lên.

Đạo sư không do dự

Hoa đức trang nghiêm thân

Nay dùng bàn chân phải

Đặt yên lên cổng thành.

Hoa của Trời và người

Đầy khắp trong hư không

Rải hoa và đốt hương

Hương hoa thật vừa lòng.

Quyết chắc Đức Phật đến

Muốn vào Duy da ly

Nhằm giáo hóa đại chúng

Nên Thế Tôn đến đây.

Bấy giờ, vợ của Thiện Tư nghe xong bài kệ, vô cùng run sợ, đứng bên lan can suy nghĩ: Đây là những vị thần gì?

Là Trời, rồng, quỷ quái hay hàng Chân Đà La, Ma Hưu Lặc, Nhân phi nhân chăng?

Hỏi xong thì đứng yên một chỗ, không lay chuyển, chẳng dám dời đổi. Khi ấy, Đức Phật đi đến nhà Đồng Tử Thiện Tư, dừng lại phía trước cửa.

Đồng Tử Thiện Tư thấy Phật liền muốn xuống lầu ngay để đảnh lễ nghinh đón, tâm vô cùng vui mừng nên không thể tự kiềm chế bèn nhảy vội xuống lầu, vâng theo lời dạy của Đức Phật, trụ trên hư không, nói kệ tán thán:

Bậc Thánh tuệ an trụ

Vững mạnh trong loài người

Thương yêu đến chúng sinh

Xin nhận nước uống này.

Đức Thế Tôn vì Đồng Tử Thiện Tư nói kệ:

Do trụ chân bản tế

Không bị nhiễm thế tục

Bản tế không thật có

Đó là tướng bản tế.

Đồng Tử Thiện Tư dùng kệ hỏi Đức Phật:

Thế nào trụ bản tế?

Chân bản tế dẫn dắt

Vô minh nương bản tế

Sao gọi là hư không?

Đức Phật dùng kệ bảo Thiện Tư:

Tế đó, chân bản tế

Tế ấy tức Như Lai

Nếu xét trụ bản tế

Rõ ràng trụ như vậy.

Như tế, thật bản tế

Tế ấy tức Như Lai

Nếu rõ thật bản tế

Đồng Tử trụ cũng vậy.

Đồng Tử Thiện Tư dùng kệ bạch Phật:

Không tế là thế nào?

Sao gọi là tướng tế?

Dùng quyền phương tiện gì?

Mà gọi là bản tế.

Đức Thế Tôn xét thấy tâm của Đồng Tử Thiện Tư có thể thấu tỏ về đạo vô xứ liền dùng kệ bảo Đồng Tử:

Vô tế không thể đợi

Mới gọi thật bản tế

Tướng tế như hư không

Hư không cũng không tướng.

Thiện Tư dùng kệ hỏi Đức Phật:

Hay thay đạo chân chánh

Đạo vô thượng nhiệm mầu

Khiến tất cả chúng sinh

Trụ như Bậc Đạo Sư.

Đồng Tử Thiện Tư ở trước Đức Phật thưa: Bạch Thế Tôn! Cúi xin Thế Tôn Từ bi nhận đóa sen này. Đức Phật liền nhận hoa.

Đồng Tử Thiện Tư tự phát ra lời nói: Do công đức này nên đạt đến đạo Chánh Chân Vô Thượng, thành tựu Bậc Tối Chánh Giác, vì chúng sinh giảng thuyết Kinh Điển, khiến họ từ hàng phàm phu đạt được pháp đạo.

Bấy giờ, Hiền Giả Xá Lợi Phất ở trong chúng hội nói với Đồng Tử Thiện Tư: Tâm nguyện của Đồng Tử Thiện Tư hướng về điều gì?

Pháp thành tựu đạo quả Chánh Giác, tướng ấy là thế nào để vì chúng sinh mà giảng thuyết pháp đó?

Thiện Tư dùng kệ trả lời:

Chí Phật không chỗ đắc

Hàng Thanh Văn cũng vậy

Sẽ thành Chánh Giác ấy

Vì chúng sinh giảng nói.

Không có đối tượng thuyết

Cũng không nơi đạt đến

Đại trí nên hiểu rõ

Vốn thanh tịnh như vậy.

Chư Phật trong quá khứ

Đấng Vô Thượng cứu đời

Cũng không chấp các pháp

Dùng Niết Bàn độ sinh.

Không chấp vào pháp giới

Cũng không chúng sinh giới

Đó tức là bản tế

Thế gian không thấu rõ.

Giả gọi là pháp giới

Nương tướng có tên gọi

Cũng không có các tưởng

Càng không có nghiệp khác.

Bấy giờ, Hiền Giả Bân Nậu Văn Đà Ni Tử vì Đồng Tử Thiện Tư nên nói kệ:

Đồng Tử, ông vì sao

Mà muốn học pháp này?

Pháp sâu xa khó đạt

Chiếu sáng chỗ mê lầm.

Như ông sinh đã lâu

Trí tuệ thật dũng mãnh

Cùng Thanh Văn bàn luận

Đối đáp không sợ hãi.

Phân biệt khắp tất cả

An trú như vàng ròng

Pháp Vương cao vời vợi

Như trăng tròn trên không.

Đồng Tử Thiện Tư dùng kệ đáp:

Nhân giả hỏi chỗ sinh

Nơi sinh không chốn sinh

Các pháp không nơi khởi

Cái gì sinh ra pháp?

Pháp ấy không chỗ sinh

Tự nhiên không thật có

Vốn gọi là thanh tịnh

Không pháp, không chỗ đắc.

Các pháp vốn thanh tịnh

Chưa từng hiểu như vậy

Diệt vô minh, kiêu mạn

Nên Phật thuyết pháp này.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần