Phật Thuyết Kinh đại Phương đẳng Vô Tưởng - Chương Ba Mươi Bảy - Tăng Trưởng - Tập Hai
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương
PHẬT THUYẾT KINH
ĐẠI PHƯƠNG ĐẲNG VÔ TƯỞNG
Hán dịch: Ngài Tam Tạng
Pháp Sư Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương
CHƯƠNG BA MƯƠI BẢY
TĂNG TRƯỞNG
TẬP HAI
Trải qua hiền kiếp này, sau khi một ngàn vị Phật diệt độ, trong suốt thời gian sáu vạn hai ngàn kiếp, hoàn toàn không có vị Phật nào xuất hiện ở đời. Thời gian này chỉ có vô lượng ức na do tha các vị Phật Bích Chi đang giáo hóa ở thế gian. Trải qua số kiếp như thế thì có bảy vị Phật xuất hiện. Và khi bảy vị Như Lai này nhập Niết Bàn rồi, cõi nước ấy lúc đó đổi tên là Hỷ Quang.
Tại cõi nước Hỷ Quang này có một vị Phật xuất hiện, hiệu là Trí Tụ Quang gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Người dân hiện có tại Thế Giới của vị Phật ấy hình dáng đoan nghiêm, thành tựu tín tâm.
Nếu người nào ở trong giáo pháp của ta, xả bỏ thân mạng để hộ trì, thì sẽ được sinh vào Thế Giới của vị Phật ấy và làm đại đệ tử. Đại đệ tử có nghĩa là Đại Bồ Tát, là đại trượng phu đích thật, là bậc đại Hương tượng vương. Dân chúng trong cõi đó đều không có tham dục, sân hận, si mê, tất cả đều thành tựu tín tâm thanh tịnh.
Đức Phật Trí Tụ Quang sống lâu đến mười lăm trung kiếp. Đức Phật đã vì các hàng đệ tử mở bày giáo pháp ba thừa. Tuy mở bày ba thừa nhưng phần nhiều nói về hạnh Nhất Thừa của Bồ Tát. Khi ấy, tuy có Ma Vương và con của ma nhưng tất cả đều phát tâm bồ đề.
Hết thảy chúng sinh đều có đủ tâm đại từ đại bi, thảy đều xa lìa các khổ não của ba đường ác, không còn tám nạn. Thế Giới thường thanh tịnh, giống như cõi Uất Đan Việt ở phương Bắc. Thiên Ma Ba Tuần không thể thao túng tùy tiện và đã dứt hẳn tà kiến.
Khi Đức Phật Như Lai ấy nhập Niết Bàn, giáo pháp tồn tại đến ngàn ức năm sau đó mới diệt mất.
Nghe Phật giảng nói xong, tất cả đại chúng, các hàng Trời, rồng, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, đem các loại hương hoa vi diệu, kỹ nhạc cúng dường Phật. Các vị đại đệ tử như Tôn Giả Đại Ca Diếp v.v… vui mừng tán thán, cung kính đảnh lễ.
Các vị Đại Bồ Tát lại đem hoa vi diệu lớn như núi Tu Di cúng dường Phật, rồi cùng nhau phát nguyện: Nguyện con sau này sinh vào Thế Giới của vị Phật ấy.
Bấy giờ, Bồ Tát Đại Vân Mật Tạng bạch: Bạch Thế Tôn! Cúi xin Như Lai hãy vì những chúng sinh phước đức mỏng ở đời sau mà diễn nói tam muội Thâm tấn đại hải thủy triều.
Phật đáp: Này thiện nam! Nay ông chớ nên nói như vậy.
Vì sao?
Gặp Phật ra đời đã là khó. Nghe được Kinh Đại Vân này cũng đã khó. Nếu có người biên chép, thọ trì, đọc tụng một câu, một chữ lại càng khó hơn.
Vì sao phải thiên vị người đời sau?
Ta sẽ mở rộng phân biệt cho khắp tất cả chúng sinh trong ba đời.
Này thiện nam! Ta vì những chúng sinh phước mỏng, tội căn sâu nặng ở đời vị lai nên mới giảng nói Kinh này, mong sẽ được truyền bá rộng rãi vào đời sau.
Này thiện nam! Vào đời vị lai nếu ai có khả năng, có lòng tin, không nghi ngờ, đọc tụng một bài kệ trong Kinh Đại Vân này thì người như thế rất là hiếm có.
Bạch Thế Tôn! Vì sao Như Lai lại nói như vậy?
Này thiện nam! Ta cũng chẳng riêng vì đời sau mà nói.
Tại sao lại phải sinh tâm nghi như vậy?
Nếu ai có khả năng nghe một câu, một kệ do Như Lai giảng nói mà không sinh tâm nghi ngờ, thì người ấy thật là hiếm có trong ba đời.
Vì sao?
Vì chúng sinh trong ba đời khó đạt được các môn tam muội, Đà La Ni tri ân báo ân. Chúng sinh đời vị lai không tri ân, cũng không thể báo ân. Do không tri ân nên tín tâm khó đạt.
Tín tâm khó đạt nên ta mới nói: Giảng nói Kinh này vì đời vị lai. Nếu ai có thể đọc tụng, thọ trì một câu, một bài kệ của Kinh này thì người ấy thật là hiếm có.
Chúng sinh đời sau phước mỏng tội nặng nên lại nói: Nói Kinh này vì đời vị lai.
Bồ Tát Đại Vân Mật Tạng nói: Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ Tát nào an trụ vào tam muội Thâm tấn đại hải thủy triều thì sẽ thành tựu được vô lượng vô biên công đức. Đây chẳng phải là những điều mà các hàng Thanh Văn, Duyên Giác nhận biết được.
Phật nói: Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Trụ vào tam muội này, các vị Bồ Tát ấy đạt được chỗ thật sâu xa, không thể lường tính. Ví như đại hải là nơi các dòng sông chảy về, số lượng không thể lường hết.
Này thiện nam! Đại hải như vậy còn có thể tính đếm, chứ các vị Bồ Tát thì thật không thể lường tính được.
Vì sao?
Vì do an trụ vào tam muội sâu xa ấy.
Lại nữa, này thiện nam! Nếu Bồ Tát nào trụ nơi tam muội này thì có năng lực dùng một sợi lông chân nhấc các đại Thế Giới của hằng hà sa số tam thiên đại thiên Thế Giới, cao đến vô lượng Thế Giới ở phương Trên, khiến cho các chúng sinh không còn có tưởng sợ hãi. Tất cả chúng sinh ở phương khác đều thấy được sự hóa độ ấy, cả đến mọi chúng sinh trong mười phương cũng đều như vậy.
Bạch Thế Tôn! tam muội như thế chính là được thành tựu từ vô lượng vô biên công đức. Thế nên, Phật nói vì khắp cả chúng sinh trong ba đời.
Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Thật đúng như những gì ông nói.
Này thiện nam! Ví như đại hải thâu gồm tất cả nguồn nước từ các sông suối. Kinh Đại Vân này cũng như vậy, thâu gồm hết thảy vô lượng Kinh Điển.
Lại nữa, này thiện nam! Nếu các Kinh Điển nào có những tam muội không vướng mắc như vậy, nên biết Kinh ấy đã thâu gồm tất cả tam muội mà các hàng Thanh Văn, Phật Bích Chi đạt được. So với tam muội này thì các tam muội kia không thể sánh bằng.
Vì sao?
Vì Thanh Văn, Duyên Giác không có thường, lạc, ngã, tịnh, còn tam muội không vướng mắc này rộng mở bày thường, lạc, ngã, tịnh của Như Lai không có biến đổi. Vì thế, không thể so sánh giữa hai loại tam muội ấy.
Này thiện nam! Nếu ai nghe Như Lai là thường hằng không biến
đổi mà có tín tâm thanh tịnh nên biết người ấy đã đạt được tâm bồ đề vô thượng tu đạo bồ đề.
Này thiện nam! Nếu người nam hoặc người nữ nào muốn đạt được thường trụ, không có biến đổi, thì phải nên thọ trì, đọc tụng, biên chép, diễn nói Kinh này.
Nếu ai có khả năng thọ trì, diễn nói Kinh này như thế, nên biết người ấy không bao lâu sẽ đạt được quả vị Chánh Đẳng Chánh Giác Vô Thượng.
Nếu ai có sinh tâm nghi ngờ, sợ hãi khi nghe nói Như Lai thường trụ, không biến đổi, nên biết người ấy không thể thấy được tướng chân thật của Như Lai. Nói tướng chân thật có nghĩa là Như Lai thường hằng bất biến, an trụ một cách yên lặng. Do vậy, người nghe không nên hồ nghi, sợ hãi, mà nên thọ trì, rộng nói cho người khác. Giảng nói như vậy nên biết pháp Phật sẽ tồn tại, không bị diệt mất.
Này thiện nam! Giống như dấu chân của tất cả chúng sinh nằm trọn trong dấu chân voi. Cũng vậy, tất cả tam muội cũng đều nhập vào trong Kinh này.
Này thiện nam! Như tất cả núi, sông, cây cối, rừng rậm trong Cõi Diêm Phù Đề, cho đến toàn bộ núi sông, cây cối, nhật, nguyệt, tinh tú trong bốn cõi thiên hạ đều nằm trọn trong ba ngàn đại thiên Thế Giới. Cũng vậy, hết thảy mọi công đức hiện có của các hàng phàm phu, Thanh Văn, Duyên Giác, các vị Phật, Bồ Tát, hết thảy các thiền định tam muội cũng đều nằm trọn trong Kinh Đại Vân này.
Nếu chúng sinh nào, ngay trong một niệm, niệm về sự thường trụ bất biến của chư Như Lai, nên biết, chúng sinh ấy tức đạt được quả vị Chánh Đẳng Chánh Giác Vô Thượng.
Này thiện nam! Ví như ánh trăng mùa thu không bị mây mù che lấp. Hoặc khi Bầu Trời trong lành, mặt trời mới xuất hiện, ánh sáng đoan nghiêm, mọi người đều ưa thích, vì phá trừ mọi u ám tối tăm.
Kinh Đại Vân này cũng như vậy, diễn ra ánh mặt trời dũng mạnh, thường hằng bất biến của Như Lai, ở tại hư không là mật ngữ thanh tịnh, phá trừ mọi ám chướng vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh của chúng sinh. Đoan nghiêm, ưa thích là dụ cho Như Lai trọn không rốt ráo nhập Niết Bàn.
Lại nữa, này thiện nam! Ví như có người thân nhẹ, đi nhanh giống như Tứ phong vương, thọ mạng đầy đủ vô số ngàn năm, bay đi khắp các Thế Giới trong mười phương. Đi khắp nơi xong, người ấy liền trở về chỗ cũ. Như vậy, những nơi đi qua, anh ta đều dùng bảy báu và cả thân mình cúng dường Tam Bảo suốt vô số ngàn năm.
Này thiện nam! Phước đức như vậy có thể tính lường được chăng?
Bạch Thế Tôn! Không thể tính lường!
Này thiện nam! Phước đức như vậy không sánh được với người chỉ trong một niệm nhớ nghĩ về Như Lai thường trụ, Pháp, Tăng không diệt.
Này thiện nam! Nếu lại có người nào vì lợi dưỡng, vì sợ hãi, vì thân gần mà diễn nói một câu, một chữ về sự thường hằng bất biến của Như Lai, phước đức đạt được so với công đức nêu trước thì công đức nêu trước kia không bằng một phần trăm, không bằng một phần ngàn, một phần trăm ngàn, một phần vạn, cho đến cả toán số thí dụ cũng không thể nào kịp.
Này thiện nam! Ví như cây thuốc, nếu có chúng sinh lấy nhánh, hoặc lấy thân, lá, hoa, quả, vỏ v.v… thì cây này cũng không sinh niệm: Lấy nhánh, chớ lấy thân.
Lấy thân chớ lấy lá. Lấy lá chớ lấy hoa. Lấy hoa chớ lấy quả. Lấy quả chớ lấy vỏ. Mà ngược lại, tùy theo cách dùng cho từng loại người bệnh, khiến bệnh tình của tất cả chúng sinh càng mau chóng bình phục. Hoặc là trộn với nước, hoặc là trộn với sữa, hoặc nghiền thành bột, hoặc vo thành viên, hoặc bôi, hoặc uống, thảy khiến lành bệnh.
Kinh Đại Vân này cũng như vậy. Không quán chúng sinh hoặc nêu lên một bài kệ, hoặc nửa bài kệ, một tên, một nghĩa, một câu, nửa câu, tin nhận hai chữ, hoặc nói Như Lai thường, cũng không quan sát chúng sinh có tu tam muội Thâm tấn đại hải thủy triều, hoặc có tu đại từ, đại bi hay không, thảy đều khiến đoạn dứt các bệnh khổ nơi ba cõi ác.
Như Lai cũng không quan sát: Chúng sinh lấy một bài kệ, không nên lấy nửa bài kệ. Lấy nửa bài kệ, không nên lấy tên. Lấy tên, không nên lấy nghĩa. Lấy nghĩa không nên lấy câu. Lấy câu không nên lấy nửa câu. Lấy nửa câu cho đến hai chữ v.v… mà Như Lai đều khiến cho bốn bộ chúng xa lìa ba nẻo ác.
Này thiện nam! Người đời sau không tu thân, không tu giới, không tu tâm, không tu tuệ, khinh chê, vì tìm lỗi lầm, cho đến do lợi dưỡng, ít đọc tụng, biên chép, nghe nhận… cũng được xa lìa vô lượng nghiệp ác, dứt hẳn các thứ bệnh tham dục, sân hận, ngu si.
Này thiện nam! Giống như khi ánh dương xuất hiện phá tan băng tuyết, Kinh Đại Vân này cũng như vậy, nói Như Lai thường trụ có khả năng phá tan tất cả băng tuyết vô thường.
Lại nữa, này thiện nam! Ví như gió mạnh nổi lên giữa hư không, thổi qua thân chúng sinh, nhập vào các lỗ chân lông, có khả năng trừ hết chứng bệnh nóng bức, thân được thư thái. Hư không dụ như Kinh Đại Vân. Gió mạnh nổi lên dụ cho Như Lai thường trụ. Gió nhập vào lỗ chân lông dụ cho các chúng sinh đều có Phật tánh. Trừ bệnh nóng bức dụ cho đoạn dứt tâm của hàng Thanh Văn, Phật Bích Chi.
Lại nữa, này thiện nam!
Nếu ai có khả năng đọc tụng, thọ trì Kinh Điển này, hoàn toàn không vì quả vị Tu Đà Hoàn. Hộ trì giới cấm hoàn toàn không vì hướng Tư Đà Hàm hay đạt quả vị Tư Đà Hàm, hướng A Na Hàm hay đắc quả vị A Na Hàm, hướng A La Hán hay đắc quả vị A La Hán.
Hộ trì giới cấm nếu là hướng Phật đạt lấy quả vị vô thượng, thì người ấy được gọi là người trì giới cấm chân chánh, chứ chẳng phải vì ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp mà hộ trì giới cấm.
Nếu vì sự không thể nghĩ bàn của Như Lai mới gọi là hộ giới. Như Lai chẳng phải vì trụ tâm, tu tập vô lượng tam muội, cũng không vì trụ tâm tu tập cùng với Chư Phật, cũng lại không vì trụ tâm tu tập vô lượng nhân quả, không vì trụ tâm tu tập vô lượng công đức của Chư Phật. Như Lai trụ nơi không chỗ trụ, gọi là thật tướng.
Nếu xem thường ấn chứng vô thượng của Như Lai thì không gọi là hộ giới. Nếu nói Như Lai vì ấn này mà gọi là người hộ giới, thì đối với việc ấy ông nên cẩn thận, chớ sinh lòng nghi ngờ.
Như Lai vô tướng nên gọi là hộ giới. Nếu nói Như Lai vì tướng ấy mà gọi là người hộ giới, ông cũng đừng sinh lòng nghi ngờ.
Như Lai vô chủng hảo nên nên gọi là hộ giới. Nếu nói Như Lai vì chủng hảo mà gọi là người hộ giới, ông cũng đừng sinh lòng nghi ngờ.
Như Lai chẳng phải là nhân duyên thần thông nên gọi là hộ giới. Như Lai chẳng phải là mật tạng nên gọi là hộ giới.
Như Lai chẳng phải là ruộng phước vô thượng nên gọi là hộ giới.
Như Lai chẳng phải là tạng Như Lai nên gọi là hộ giới.
Như Lai vì đoạn trừ tất cả sự khổ não bức bách của sinh, già, bệnh, chết nơi chúng sinh nên gọi là hộ giới.
Vì muốn đem lại An Lạc cho các chúng sinh nên gọi là hộ giới.
Vì đoạn dứt sự ràng buộc của sinh tử cho chúng sinh nên gọi là hộ giới.
Vì khiến cho chúng sinh chuyên hướng đến đạo bồ đề vô thượng nên gọi là hộ giới.
Vì các chúng sinh mà đạt quả vị Chánh Đẳng Chánh Giác Vô Thượng nên gọi là hộ giới.
Vì các chúng sinh mà chuyển bánh xe pháp nên gọi là hộ giới.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh đều đạt danh tự Thánh Tăng nên gọi là hộ giới.
Vì khiến cho chúng sinh không đoạn chủng tánh Bậc Thánh của Như Lai nên gọi là hộ giới.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh không đoạn Pháp, Tăng nên gọi là hộ giới.
Vì khiến cho tất cả chúng sinh đều đắc tam muội thiền định, trí tuệ, giải thoát nên gọi là hộ giới.
Vì khiến cho chúng sinh đều đắc tịnh giới đầy đủ không thiếu nên gọi là hộ giới.
Như Lai vô giới nên gọi là hộ giới.
Đoạn tất cả giới nên gọi là hộ giới.
Như Lai chẳng có giới này nên gọi là hộ giới.
Chẳng phải không có giới này nên gọi là hộ giới.
Bấy giờ, Đại Bồ Tát Đại Vân Mật Tạng bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu nói Như Lai không hộ giới, nghĩa ấy như thế nào?
Nếu nói Bồ Tát trụ vào tam muội Thâm tấn đại hải thủy triều, không hộ giới, nghĩa ấy như thế nào?
Như Lai chẳng phải vì ấn vô thượng nên gọi là hộ giới, nghĩa ấy như thế nào?
Phật đáp: Này thiện nam! Vị Đại Bồ Tát kể từ lúc trụ vào tam muội này trở đi, ban đầu chưa từng trụ vào nơi pháp hữu vi nên thành tựu đầy đủ tất cả pháp Phật.
Vì sao?
Vì tam muội này đều đã thâu gồm tất cả pháp Phật.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Tăng Chi Bộ - Chương Một - Một Pháp - Phẩm Bảy - Phẩm Tinh Tấn
Phật Thuyết Kinh A Nan Vấn Phật Sự Cát Hung
Phật Thuyết Kinh Hiện Tại Hiền Kiếp Thiên Phật Danh - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội đầu - Phẩm Mười Sáu - Phẩm Tán đại Thừa - Phần Sáu
Phật Thuyết Kinh Bát Nhã Ba La Mật - Phẩm Bốn Mươi Chín - Phẩm Vấn Tướng
Phật Thuyết Kinh Tối Thượng đại Thừa Kim Cương đại Giáo Bảo Vương - Phần Ba