Phật Thuyết Kinh đại Phương Quảng Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi Căn Bản Nghi Quỹ - Phẩm Bốn - Phẩm Tranh Tượng Nghi Tắc - Tập Năm

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Thiên Tức Tai, Đời Tống

PHẬT THUYẾT

KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG

BỒ TÁT TẠNG VĂN THÙ SƯ LỢI

CĂN BẢN NGHI QUỸ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Thiên Tức Tai, Đời Tống  

PHẨM BỐN

PHẨM TRANH TƯỢNG NGHI TẮC  

TẬP NĂM  

Bấy giờ, Diệu Cát Tường Đồng Tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, nhiễu quanh Đức Phật ba vòng, đỉnh lễ bàn chân của Đức Phật rồi bạch Phật rằng: Lành thay! Lành thay! Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác vì lợi ích cho tất cả chúng sinh trong thế gian.

Khéo hay nói Chánh Pháp Chân Ngôn Nhất Thiết Minh Nghĩa này, khiến các hữu tình y theo Đạo Pháp này, phương tiện tu tập thành tựu Chân Ngôn Hạnh của tất cả Bồ Tát, sẽ được Tối Thượng Bồ Đề Niết Bàn. Nay sự bí mật sâu xa của Chân Ngôn này hay nhổ bứt thế gian, đem lại lợi ích rộng lớn.

Như sau khi Đức Phật diệt độ, trong đời ác: Tất cả Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Thánh Hiền… khắp cả đều ẩn mất, lúc đó chúng sinh lười biếng phóng dật, chẳng tin Kinh Pháp, gần gũi bạn ác, hư vọng, gian trá, tà kiến, điên đảo… nếu nghe pháp này thì kinh sợ nghi ngờ.

Người này khi chết, đi vào địa ngục, trôi lăn trong sinh tử, vĩnh viễn chẳng giải thoát. Nguyện xin Đức Thế Tôn từ bi thương xót, phương tiện giải nói Chân Ngôn tương ứng với Nghi Tắc của tranh tượng, khiến các chúng sinh giáng phục được tâm ấy, đến được Vô Úy Địa.

Khi ấy, Đức Thích Ca Như Lai bảo Diệu Cát Tường Đồng Tử rằng: Lành thay! Lành thay Diệu Cát Tường! Ông hay vì chúng sinh đời Mạt Thế Paścima kāla hỏi Như Lai về Nghi Tắc màu nhiệm thiết yếu của Chân Ngôn Hạnh Nghĩa bí mật tối thượng thành tựu Tranh Tượng.

Các ông hãy nghe cho kỹ! Ta sẽ vì ông nói. Ta có Lục Tự Chân Ngôn Ṣaḍākṣara mantra tên là Vi Diệu Tâm Parama hṛdaya, các ông tin nhận không có nghi ngờ. Nếu chúng sinh ấy thành tựu Pháp này, giáng phục tâm ấy thì quyết định thành tựu Phật Quả Bồ Đề, bảy mươi sáu câu chi Phật quá khứ đã đồng tuyên nói, nay ta vì ông với chúng sinh đời Mạt Thế mà lược nói.

Án, phộc cát dã thế, nhạ dược.

OṃVākyerthī jaya.

Án, phộc cát dã thế, săn sa phộc.

OṃVākye ṣeśe svā.

Án, phộc cát dã khiếm nhạ dược.

OṃVākye Gaṃ jaya.

Án, phộc cát dã, nễ sắt trí dược.

OṃVākye niṣṭaya.

Án, phộc cát dã, nại ma nặc.

OṃVākye damanaḥ.

Án, phộc cát dã, ma na sách.

OṃVākye manasa.

Bản Phạn ghi nhận các câu Chú trên là:

OṂVĀKYĀRTHE JAYA.

OṂVĀKYA ŚEṢE SVA.

OṂVAKYE YANAYAḤ.

OṂVĀKYA NIṢṬHEYAḤ.

OṂVĀKYE YANAMAḤ.

OṂVĀKYE DANAMAḤ.

Lúc đó, Đức Thế Tôn nói Chân Ngôn này xong, liền bảo Diệu Cát Tường rằng: Lục Đạo Lục Tự Vi Diệu Tâm Chân Ngôn này đầy đủ đại lực, Đại Tinh Tiến, tối thượng không có gì ngang bằng, là điều thù diệu tối thắng mà tất cả Chư Phật đã đồng tuyên nói. Nếu Chân Ngôn này lưu bày ở thế gian thì lợi lạc cho chúng sinh như Đức Phật trụ ở đời mà không có khác.

Lại pháp giáo này có thượng, trung, hạ. Nay tâm vi diệu tối thượng bậc nhất, mở lối Bồ Đề Bodhi mārga: Bồ đề đạo, vào Như Lai Tộc Tathāgata kule, thành Chánh Giác Thừa, được quả vô thượng.

Nếu khi pháp giáo của Như Lai sắp muốn diệt, thời nay Chân Ngôn này hay làm ủng hộ khiến được trụ lâu. Nếu lại có người y theo Nghi Quỹ này, chí tâm trì tụng, cầu phước đức tối thượng của thế gian thì không có gì chẳng thành tựu. Giả sử lại có người, tâm chưa tin chắc thật, đối với Đàn Nghi này thí nghiệm dựng lập thì việc mong cầu cũng được thành tựu, huống chi là chí thành y theo pháp trì tụng.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói Chân Ngôn Giáo Pháp của Nghi Tắc Tranh Tượng này vì chúng sinh năm trược trong đời vị lai: Đoản mệnh, nghèo túng, lười biếng, ngu si, chẳng thể tinh tiến, tu hạnh rộng lớn… tùy theo căn cơ cạn cợt ấy mà lược nói.

Trước tiên, khiến hợp chỉ trắng, hoặc một lượng, hoặc nửa lượng, dùng chỉ bện dệt tấm tranh chỉ. Tấm tranh dài một khuỷu tay, rộng nửa khuỷu tay, bên dưới lưu lại chút chân chỉ. Hoặc dùng tơ lụa làm tấm tranh cũng được.

Nếu cần tấm tranh, hoặc dài hai khuỷu tay, bốn khuỷu tay, sáu khủy tay, tám khủy tay, cho đến mười khuỷu tay cũng được.

Hết thảy nhóm tóc, lông… đều nên loại bỏ di, tinh khiết hộ trì không để cho vấy bẩn.

Dùng nhóm hương: Bạch Đàn, Long Não, Cung Câu Ma xông ướp tấm tranh ấy, rồi an trí một vật khí trong sạch ở đất tinh khiết, đem tấm lụa bỏ đầy trong vật khí ấy.

Sau đó đem nhóm hương Bạch Đàn, Cung Câu Ma, Long Não … bỏ vào trong nước sạch không có loài trùng rồi hòa chung, rưới vảy thấm ướt tấm tranh chỉ ấy, y theo Pháp an trí ba ngày, làm ủng hộ.

A Xà Lê chí tâm thanh tịnh, vào ngày mười năm của kỳ Bạch Nguyệt, hướng trước tấm lụa, hướng mặt về phương Đông, ngồi trên tòa cỏ cát tường, tụng Chân Ngôn này tám trăm biến.

Đát nễ dã tha: Án, hứ hứ, bà nga tông, phộc hộ, lỗ bát, đà la, vĩ nễ dã, tác sô săn, a phộc lộ ca dã, a phộc lộ ca dã, hàm, tam ma dã ma nỗ sa ma, câu ma la lỗ ba, đà lý ni, ma hạ mạo địa tát đát phộc, khẩn tiến la dã tế, hồng, phả tra phả tra.

Tadyathā: Oṃhe he bhagavaṃ bahu rūpa dharaḥ divya cakṣuṣe avalokaya avalokaya māṃ samayam anusmara kumāra rūpa dhāriṇe mahābodhisatva kiṃcirāyasi, hūṃ phaṭ phaṭ Bản Phạn ghi nhận câu Chú trên là:

TADYATHĀ: OṂHE HE BHAGAVAṂ BAHU RŪPA DHARAḤ DIVYA CAKṢUṢE, AVALOKAYA ACALOKAYA MAṂ, SAMAYAMANUSMARA KUMĀRA RŪPA DHĀRIṆE MAHĀ BODHISATTVA.

KIṂCISĀYASI, HŪṂ HŪṂ PHAṬ PHAṬ SVĀHĀ.

A Xà Lê trì Chân Ngôn này đầy đủ xong, chỉ ở bên cạnh tấm lụa, nằm ngủ. Như trong mộng thấy điềm tốt lành thì Pháp của tấm tranh ắt thành, có thể khiến vẽ tượng.

Như trong mộng thấy điềm chẳng lành thì pháp của tấm tranh chưa thành. Lại ở trong vật khí lấy thân tấm tranh ra, rồi phơi ở bóng mát cho khô. Tấm tranh ấy khô xong, lại dùng riêng vật khí tinh khiết tròn đầy, chứa đầy tấm tranh ấy bên trong, rồi y theo pháp an trí ở chỗ bí mật của đất thanh tịnh, khiến người trì tụng lại niệm Lục Tự Vi Diệu Tâm Chân Ngôn một Lạc Xoa mười vạn biến làm ủng hộ thì tấm tranh ấy quyết định thành tựu.

Đủ ba ngày sau, lấy thân tấm tranh ra, chọn ba trường Nguyệt tháng năm, tháng chín, tháng Giêng khiến vẽ bức tranh này. Nếu muốn tháng khác thì cần gặp thời, nên chọn ngày tốt của kỳ Bạch Nguyệt, lại được tinh diệu tốt trực nhật, lại đến nửa đêm, giờ Tý thì khiến người vẽ thọ nhận giới Phẩm, đến sáng sớm, chọn đất trong sạch, thiếu đốt Long Não Hương rồi khiến vẽ tranh.

Trước tiên, vẽ Diệu Cát Tường Đồng Tử Mañjuśrī kumāra, làm tướng Tiểu Đồng Tử, đầu có năm búi tóc, màu vàng ròng trang nghiêm thân thể, mặc áo màu xanh, lại dùng Tiên Y màu xanh quàng trên thân, ngồi Bán Già Ardha paryaṅka ở trên tòa Sư Tử, chân phải đạp ở tòa báu, bên dưới tòa báu lại có hoa sen trắng, làm tướng thuyết pháp, trên dưới đoan nghiêm, các tướng viên mãn, mặt hiện tướng vui giận, quán nhìn người trì tụng.

Bên phải là Thánh Phổ Hiền Ārya samanta bhadra ngồi trên hoa sen trắng, đầy đủ các tướng, tất cả trang nghiêm, thân màu xanh lục tím, mặc áo màu xanh, dùng châu báu Anh Lạc làm dây quấn nách, tay trái cầm viên ngọc báu Như Ý, tay phải cầm cây phất trắng.

Bên trái Diệu Cát Tường, vẽ Thánh Quán Tự Tại Āryāvalokiteśvara cũng ngồi trên hoa sen trắng, thân như màu mặt trăng trung thu, đầy đủ các tướng, tất cả trang nghiêm, cũng mặc áo màu xanh, lại dùng châu báu Anh Lạc làm dây quấn nách, tay trái cầm hoa sen trắng, tay phải cầm cây phất có cán bằng vàng ròng, mặt hiện tướng vui giận, chiêm ngưỡng Diệu Cát Tường.

Lại hoa sen trắng đã ngồi này từ nước ao sinh ra, ở cọng cán có ba hoa sen, tòa hoa sen trắng Śveta padmāsana ở giữa là Diệu Cát Tường, hoa sen trắng hai bên thì tòa bên phải là Phổ Hiền, tòa bên trái là Quán Tự Tại. Cọng của hoa sen làm màu của vật báu xanh đậm.

Ở ao Đại Vô Nhiệt Não Mahāvatapta ló ra hai vị Đại Long Vương, vị thứ nhất tên là Nan Đà Nanda, vị thứ hai tên là Bạt Nan Đà Upananda, thân làm màu trắng, tất cả trang nghiêm, đều ở trên đầu đội bảy đầu Rồng, nửa bên trên như tướng người, nửa bên dưới như hình rắn, ở trong ao này nâng cọng hoa sen trắng, ngẩng đầu chiêm ngưỡng Diệu Cát Tường Bồ Tát.

Bên trong ao ấy có vô số hoa sen, hoặc nở, hoặc chưa nở dùng để trang nghiêm.

Lại ở bên phải của Diệu Cát Tường, gần góc tranh, vẽ người trì tụng như nghi tướng của người ấy mà vẽ, quỳ gối phải sát đất, tay bưng lò hương, chiêm ngưỡng Đạo Trường Hội.

Lại ở bên trên Diệu Cát Tường, gần hai góc tranh, vẽ hai vị Thiên Từ cỡi mây trong hư không, bay đến làm tướng tuôn mưa hoa, tuôn mưa hoa thù diệu xuống dưới tràn khắp ở trên bức tranh, mọi loại mở bày như nghi tắc lúc trước.

Hết thảy Thánh Diệu Cát Tường, Phổ Hiền, Quán Tự Tại với vật cầm nắm ấy kèm A Xà Lê trì tụng… đều nên y theo pháp giáp vòng vẽ đầy đủ. Nếu chẳng y theo pháp, thiếu đi một việc thì Đàn Pháp chẳng thành, mong cầu không có thành tựu.

Nếu người không có sức, hoặc có thể tùy theo duyên dựng lập thì pháp ấy chẳng nhất định. Như tấm lụa đã làm được, hoặc một xích 1/3 m, hoặc một khuỷu tay, hoặc nửa khuỷu tay cũng được làm bức tranh.

Người vẽ, hoặc tin pháp hoặc chẳng tin pháp, hoặc trì giới hoặc chẳng trì giới, hoặc trong sạch hoặc chẳng trong sạch… cũng có thể được vẽ.

Nếu người trì tụng, hoặc tự mình hoặc người khác, nên tin trọng Phật Pháp, trì giới thanh tịnh, phát tâm bồ đề. Như vậy người ấy đối với Chân Ngôn Hạnh, ắt được thành tựu.

Nếu người đối với tà luận của ngoại đạo với tiểu thừa Hīna yāna mà chẳng ưa dính, đối với đại thừa Mahā yāna thì tin ưa tu tập, ắt được thành tựu Phật Đạo vô thượng.

Nếu người đối với Bạch Pháp Śukla dharma: Tất cả pháp trong sạch tốt lành mà chẳng tin thì đối với hạt giống bồ đề, cuối cùng không có dụng để sinh ra, ví như lúa khô héo dứt hẳn mầm giống ấy.

Nếu người tin nhận, y theo pháp thọ trì thì hết thảy tất cả Chân Ngôn thuộc thế gian xuất thế gian với các Hiền Thánh, không có gì chẳng thành tựu.

Nay ta lược nói Phẩm Thượng Trung Hạ với việc của Pháp Tắc của bức tranh nhỏ tiểu tranh ấy, tất cả chỗ mong cầu đều được thành tựu.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần