Phật Thuyết Kinh Trường Bộ - Kinh Bố Sá Bà Lâu - Phần Một
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán
PHẬT THUYẾT KINH TRƯỜNG BỘ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
An Thế Cao, Đời Hậu Hán
KINH BỐ SÁ BÀ LÂU
PHẦN MỘT
Như vậy tôi nghe!
Một thời Thế Tôn ở tại Sàvatthi Xá Vệ, rừng Jetavana Kỳ Viên, vườn Anàthapindika Cấp Cô Ðộc.
Lúc bấy giờ, du sĩ ngoại đạo Potthapada Bố Sá Bà Lâu cùng với đại chúng du sĩ ngoại đạo khoảng ba trăm vị, ở tại vườn của Hoàng Hậu Mallika Mạt Lê Viên tên là Ekasàlaka có hàng rào cây tinduka, một hội thảo trường luận bàn về chánh kiến, tà kiến.
Lúc bấy giờ Thế Tôn, vào buổi sáng đắp y cầm bát vào Sàvatthi khất thực.
Rồi Thế Tôn tự nghĩ: Nay còn quá sớm để đi khất thực tại Sàvatthi, ta hãy đi đến vườn của Hoàng Hậu Mallika tên là Ekasàlaka, có hàng rào cây tinduka, một hội thảo trường luận bàn chánh kiến, tà kiến, để gặp du sĩ ngoại đạo Potthapàda.
Và Thế Tôn đi đến vườn của Hoàng Hậu Mallika, tên là Ekasàlaka, có hàng rào cây tinduka, một hội thảo trường luận về chánh kiến, tà kiến.
Lúc bấy giờ du sĩ ngoại đạo Potthapàda ngồi với đại chúng du sĩ ngoại đạo, đang ồn ào, la lối, lớn tiếng bàn luận những vấn đề phù phiếm như câu chuyện về Vua chúa.
Câu chuyện về ăn trộm.
Câu chuyện về Đại Thần.
Câu chuyện về binh lính.
Các câu chuyện về hãi hùng.
Câu chuyện về chiến tranh.
Câu chuyện về đồ ăn.
Câu chuyện về đồ uống.
Câu chuyện về đồ mặc.
Câu chuyện về giường nằm.
Câu chuyện về vòng hoa.
Câu chuyện về hương liệu.
Câu chuyện về bà con.
Câu chuyện về xe cộ.
Câu chuyện về làng xóm.
Câu chuyện về thị trấn.
Câu chuyện về thành phố.
Câu chuyện về Quốc Độ.
Câu chuyện về đàn bà.
Câu chuyện về đàn ông.
Câu chuyện về vị anh hùng.
Câu chuyện bên lề đường.
Câu chuyện tại chỗ lấy nước.
Câu chuyện về người đã chết.
Các câu chuyện tạp thoại.
Câu chuyện về hiện trạng của Thế Giới, hiện trạng của đại dương. Câu chuyện về sự hiện hữu và sự không hiện hữu.
Du sĩ ngoại đạo Potthapàda thấy Thế Tôn từ xa đến, liền khuyến cáo chúng của mình: Các Tôn Giả hãy nhỏ tiếng, các Tôn Giả hãy đừng làm ồn. Nay Sa Môn Gotama đang đến, Ngài ưa mến sự trầm lặng, vị Đại Đức này tán thán sự trầm lặng. Nếu biết chúng này yên tịnh, Ngài có thể ghé đến đây. Nghe nói vậy, các du sĩ ngoại đạo liền im lặng.
Rồi Thế Tôn đến du sĩ ngoại đạo Potthapàda.
Và du sĩ ngoại đạo Potthapàda bạch Thế Tôn: Thiện tai Thế Tôn! Hoan nghênh Thế Tôn! Ðã lâu Thế Tôn không quá bộ đến đây.
Mời Thế Tôn ngồi! Ðây là chỗ ngồi đã soạn sẵn. Thế Tôn ngồi trên chỗ đã soạn sẵn.
Du sĩ ngoại đạo Potthapàda lấy một ghế thấp khác và ngồi xuống một bên.
Rồi Thế Tôn nói với du sĩ Potthapàda đã ngồi một bên: Này Potthapàda, vấn đề gì các vị đang ngồi thảo luận?
Vấn đề gì đang nói mà bị gián đoạn?
Khi nghe nói vậy du sĩ ngoại đạo Potthapàda bạch Thế Tôn: Bạch Thế Tôn, hãy gác một bên câu chuyện chúng tôi đang ngồi bàn luận, bạch Thế Tôn, lát nữa Thế Tôn nghe lại cũng không khó khăn gì.
Bạch Thế Tôn, thuở xưa xưa lắm, nhiều vị Sa Môn, Bà La Môn ngoại đạo tụ họp, ngồi hội thảo trong giảng đường nêu lên vấn đề sự diệt tận các tăng thượng tưởng.
Này Tôn Giả, tăng thượng tưởng diệt tận như thế nào?
Một vài vị trả lời: Không nhân, không duyên, các tưởng của con người sinh và diệt! Khi tưởng sanh con người có tưởng, khi tưởng diệt con người không có tưởng. Như vậy, một vài vị giải thích sự diệt tận các tăng thượng tưởng.
Về vấn đề này, người khác lại nói như sau: Các Tôn Giả, sự kiện không phải như vậy.
Này Tôn Giả, tưởng là tự ngã của con người, chính tưởng ấy đến và đi. Khi tưởng ấy đến thì con người có tưởng, khi tưởng ấy đi thì con người không có tưởng. Như vậy một vài vị giải thích sự diệt tận các tăng thượng tưởng.
Vấn đề này, người khác lại nói như sau: Các Tôn Giả, sự kiện không phải như vậy.
Này Tôn Giả, có những Sa Môn, Bà La Môn có Đại Thần thông và đại oai lực. Chính những vị này khiến tưởng nhập vào trong người và cũng kéo tưởng ra ngoài người ấy.
Khi các vị này khiến tưởng nhập vào trong người, người ấy có tưởng, khi kéo tưởng ra ngoài, người ấy không có tưởng. Như vậy một vài vị giải thích sự diệt tận các tăng thượng tưởng.
Về vấn đề này, người khác lại nói như sau: Các Tôn Giả, sự kiện không phải như vậy.
Này Tôn Giả, có những vị Thiên Thần có đại thần thông, có đại oai lực, chính những vị này khiến tưởng nhập vào trong người và kéo tưởng ra ngoài người ấy.
Khi các vị này khiến tưởng nhập vào trong người, người ấy có tưởng, khi kéo tưởng ra ngoài, người ấy không có tưởng. Như vậy một vài vị giải thích sự diệt tận các tăng thượng tưởng.
Bạch Thế Tôn, lúc bấy giờ con tưởng niệm đến Thế Tôn: Mong Thế Tôn có mặt ở đây! Mong Thiện thệ có mặt ở đây! Ngài rất tinh thông những pháp này. Chắc chắn Thế Tôn biết rõ sự diệt tận các tăng thượng tưởng.
Bạch Thế Tôn, sự diệt tận các tăng thượng tưởng như thế nào?
Này Potthapàda, những Sa Môn, Bà La Môn nào đã nói: Không nhân, không duyên, các tưởng của con người sinh và diệt. Những vị này đã sai lạc ngay từ ban đầu.
Vì sao vậy?
Này Potthapàda, chính vì có nhân, có duyên, các tưởng của con người sinh và diệt. Chính do sự học tập, một loại tưởng sanh, chính do sự học tập, một loại tưởng diệt.
Và Thế Tôn nói: Sự học tập ấy là gì?
Này Potthapàda, nay ở Đời Như Lai xuất hiện, là bậc A La Hán, Chánh Biến Tri như Kinh Sa Môn quả, trừ đoạn kết của mỗi đoạn thân nghiệp, ngữ nghiệp thanh tịnh, mạng sống trong sạch, giới hạnh đầy đủ, hộ trì các căn, chánh niệm tỉnh giác và biết tri túc.
Này Potthapàda, thế nào là Tỳ Kheo giới hạnh đầy đủ?
Ở đây này Potthapàda, Tỳ Kheo từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình.
Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật như Kinh Sa Môn quả, đoạn nói về giới luật như dùng ảo thuật để yên ổn, để khỏi làm các điều đã hứa ngăn ngừa công hiệu của thuốc. Còn vị ấy thì tránh xa các tà mạng kể trên như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
Này Potthapàda, và như vậy Tỳ Kheo ấy nhờ đầy đủ giới luật nên không thấy sợ hãi từ một chỗ nào về phương diện hộ trì giới luật.
Này Potthapàda, như một Sát Đế Lỵ đã làm lễ quán đảnh, đã hàng phục kẻ thù địch, không còn thấy sợ hãi từ chỗ nào nữa về phương diện thù địch. Cũng vậy, này Potthapàda, Tỳ Kheo ấy nhờ đầy đủ giới luật nên không thấy sợ hãi từ một chỗ nào về phương diện hộ trì giới luật.
Vị ấy nhờ đầy đủ giới luật cao quý này, nên hưởng lạc thọ nội tâm không lỗi lầm. Như vậy, này Potthapàda, Tỳ Kheo đầy đủ giới luật.
Này Potthapàda, thế nào là Tỳ Kheo hộ trì các căn?
Này Potthapàda, khi mắt thấy sắc, Tỳ Kheo không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng.
Những nguyên nhân gì, vì con mắt không được chế ngự, khiến tham ái ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên, Tỳ Kheo tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì con mắt, thực hành sự hộ trì con mắt.
Khi tai nghe tiếng mũi ngửi hương lưỡi nếm vị thân cảm xúc ý nhận thức các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng.
Những nguyên nhân gì, vì ý căn không được chế ngự, khiến tham ái ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên, Tỳ Kheo chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn. Vị ấy, nhờ sự hộ trì cao quý các căn ấy, nên hưởng lạc thọ, nội tâm không lỗi lầm.
Như vậy, này Potthapàda, Tỳ Kheo hộ trì các căn như Kinh Sa Môn quả, đoạn nói về vấn đề trên. Khi quán tự thân đã xả ly năm triền cái ấy, hân hoan sanh.
Do hân hoan, nên hỷ sanh. Do tâm hoan hỷ, thân được khinh an. Do thân khinh an, lạc thọ sanh. Do lạc thọ, tâm được định tĩnh.
Tỳ Kheo, ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh với tầm, với tứ. Dục tưởng xưa kia của vị ấy được diệt trừ, và khi tưởng hỷ lạc vi diệu chân thật do ly dục sanh khởi lên, vị ấy có tưởng hỷ lạc vi diệu chân thật, do ly dục sanh.
Như vậy do học tập, một tưởng khởi lên, cũng do học tập, một tưởng diệt trừ.
Và Thế Tôn nói: Ðó là sự học tập Thế Tôn nói đến.
Lại nữa, này Potthapàda, Tỳ Kheo diệt tầm, diệt tứ, chứng và trú thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Tưởng hỷ lạc vi diệu chân thật do ly dục sanh xưa kia của vị ấy được diệt trừ.
Và khi tưởng hỷ lạc vi diệu chân thật do định sanh khởi lên, vị ấy có tưởng hỷ lạc vi diệu chân thật do định sanh. Như vậy do học tập, một tưởng khởi lên, cũng do học tập một tưởng diệt trừ.
Và Thế Tôn nói: Ðó là sự học tập Thế Tôn nói đến.
Lại nữa này Potthapàda, Tỳ Kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các Bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú thiền thứ ba.
Tưởng hỷ lạc chân thật vi diệu do định sanh xưa kia của vị ấy được diệt trừ. Và khi tưởng xả lạc vi diệu chân thật khởi lên, vị ấy có tưởng xả lạc vi diệu chân thật. Như vậy do học tập, một tưởng khởi lên và cũng do học tập, một tưởng diệt trừ.
Và Thế Tôn nói: Ðó là sự học tập Thế Tôn nói đến.
Lại nữa này Potthapàda, Tỳ Kheo xả lạc, xả khổ, diệt hỷ, ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú thiền thứ tư không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Như vậy xả lạc chân thật vi diệu xưa kia của vị ấy được diệt trừ.
Và khi tưởng xả lạc, xả khổ vi diệu chân thật khởi lên, vị ấy có tưởng xả lạc, xả khổ vi diệu chân thật. Như vậy do học tập một tưởng khởi lên, cũng do học tập một tưởng diệt trừ.
Và Thế Tôn nói: Ðó là sự học tập Thế Tôn nói đến.
Lại nữa này Potthapàda, với sự vượt thoát mọi sắc tưởng, với sự diệt trừ mọi chướng ngại tưởng, với sự không tác ý đối với dị tưởng, Tỳ Kheo nghĩ rằng: Hư không là vô biên, chứng và trú không vô biên xứ. Như vậy sắc tưởng xưa kia của vị ấy được diệt trừ.
Và khi tưởng không vô biên xứ vi diệu chân thật khởi lên, vị ấy có tưởng không vô biên xứ vi diệu chân thật. Như vậy do sự học tập, một tưởng khởi lên, cũng do học tập một tưởng diệt trừ.
Và Thế Tôn nói: Ðó là sự học tập Thế Tôn nói đến.
Lại nữa này Potthapàda, với sự vượt thoát mọi không vô biên xứ, Tỳ Kheo nghĩ rằng: Thức là vô biên, chứng và trú thức vô biên xứ.
Như vậy tưởng không vô biên xứ vi diệu chân thật xưa kia của vị ấy được diệt trừ, và khi tưởng thức vô biên xứ vi diệu chân thật khởi lên, vị ấy có tưởng thức vô biên xứ vi diệu chân thật. Như vậy do học tập, một tưởng khởi lên, cũng do học tập, một tưởng diệt trừ.
Và Thế Tôn nói: Ðó là sự học tập Thế Tôn nói đến.
Lại nữa này Potthapàda, với sự vượt thoát mọi thức vô biên xứ, Tỳ Kheo nghĩ rằng: Không có vật gì chứng và trú vô sở hữu xứ.
Như vậy tưởng thức vô biên xứ vi diệu chân thật xưa kia của vị ấy được diệt trừ. Và khi tưởng vô sở hữu xứ vi diệu chân thật khởi lên, vị ấy có tưởng vô sở hữu xứ vi diệu chân thật. Như vậy do học tập, một tưởng khởi lên, cũng do học tập, một tưởng diệt trừ.
Và Thế Tôn nói: Ðó là sự học tập Thế Tôn nói đến.
Lại nữa này Potthapàda, khi Tỳ Kheo ở nơi đây tự mình khởi tưởng, vị này tiếp tục đi từ tưởng này đến tưởng khác cho đến tưởng tột đỉnh.
Và vị này khi đứng tại tưởng tột đỉnh có thể nghĩ: Tâm còn suy tưởng có hại cho ta, tâm không suy tưởng mới tốt cho ta. Nếu ta cứ tiếp tục suy tưởng, khi những tưởng này của ta diệt đi, các thô tưởng khác lại khởi lên, ta hãy đừng có suy tưởng.
Do không có suy tưởng, các tưởng kia diệt tận và các thô tưởng khác không khởi lên, vị ấy cảm thọ sự diệt tận. Như vậy, này Potthapàda, là sự chứng đạt trí tuệ diệt trừ dần dần các tăng thượng tưởng.
Này Potthapàda, ngươi nghĩ thế nào?
Trước đây ngươi đã nghe sự chứng đạt trí tuệ diệt trừ dần dần các tăng thượng tưởng này không?
Bạch Thế Tôn, con không có nghe!
Bạch Thế Tôn, nhưng nay con hiểu lời nói của Thế Tôn. Này Potthapàda, khi Tỳ Kheo ở đây tự mình khởi tưởng, vị này tiếp tục đi từ tưởng này đến tưởng khác cho đến tưởng tột đỉnh.
Và vị này, khi đứng lại tưởng tột đỉnh có thể nghĩ: Tâm còn suy tưởng, có hại cho ta, tâm không suy tưởng mới tốt cho ta. Nếu ta cứ tiếp tục suy tưởng khi những tưởng này của ta diệt đi, các thô tưởng khác lại khởi lên. Vậy ta hãy đừng có suy tưởng.
Và vị này không có suy tưởng. Do không có suy tưởng, các tưởng kia diệt tận và các thô tưởng khác cũng không khởi lên. Vị ấy cảm thọ sự diệt tận. Như vậy này Potthapàda là sự chứng đạt trí tuệ diệt trừ dần dần các tăng thượng tưởng.
Như vậy là phải, này Potthapàda!
Bạch Thế Tôn, Thế Tôn chỉ nói đến một tưởng tuyệt đỉnh hay nhiều tưởng tuyệt đỉnh?
Này Potthapàda, ta nói đến một tưởng tuyệt đỉnh và cũng nói đến nhiều tưởng tuyệt đỉnh.
Bạch Thế Tôn, làm sao Thế Tôn nói đến một tưởng tuyệt đỉnh và cũng nói đến nhiều tưởng tuyệt đỉnh?
Này Potthapàda, tùy theo vị ấy cảm thọ sự diệt tận của một tưởng sau tưởng khác, vị ấy đạt tới nhiều tuyệt đỉnh sai khác, cái này tiếp theo cái kia cho đến tuyệt đỉnh cuối cùng mà ta nói đến nhiều tưởng tuyệt đỉnh.
Này Potthapàda như vậy Ta nói đến một tưởng tuyệt đỉnh và cũng nói đến nhiều tưởng tuyệt đỉnh.
Bạch Thế Tôn, tưởng khởi trước, trí khởi sau. Hay trí khởi trước tưởng khởi sau.
Hay tưởng và trí cùng khởi một lần không trước không sau?
Này Potthapàda, tưởng khởi trước trí mới khởi sau, do tưởng sanh, trí mới sanh.
Vị ấy tuệ tri: Do duyên tưởng, trí sanh ra nơi ta. Này Potthapàda, với lời dạy này cần phải hiểu tưởng sanh trước trí sanh sau, tưởng sanh trí mới sanh.
Bạch Thế Tôn, tưởng có phải là tự ngã của con người hay tưởng khác, tự ngã khác?
Này Potthapàda, ngươi hiểu tự ngã như thế nào?
Bạch Thế Tôn, con hiểu tự ngã là thô phù, có sắc, do bốn đại hình thành, và do đoàn thực nuôi dưỡng.
Này Potthapàda, nếu tự ngã là thô phù, có sắc, do bốn đại hình thành và do đoàn thực nuôi dưỡng, như vậy này Potthapàda, tưởng khác và tự ngã khác.
Này Potthapàda, với sự nhận thức này, cần phải hiểu, tưởng khác và tự ngã khác.
Này Potthapàda, giả sử tự ngã ấy là thô phù, có sắc, do bốn đại hình thành và do đoàn thực nuôi dưỡng, tuy vậy một vài tưởng khác của người ấy khởi lên, một vài tưởng khác diệt xuống.
Này Potthapàda, với sự nhận thức này cần phải hiểu tưởng khác, tự ngã khác.
Bạch Thế Tôn, con hiểu tự ngã là do ý sở thành, đầy đủ mọi chi tiết lớn nhỏ, đầy đủ các căn.
Này Potthapàda, nếu tự ngã là do ý sở thành, đầy đủ mọi chi tiết lớn nhỏ, đầy đủ các căn, như vậy này Potthapàda, với sự nhận thức này, cần phải hiểu tưởng khác, tự ngã khác.
Này Potthapàda, giả sử tự ngã ấy là do ý sở thành, đầy đủ mọi chi tiết lớn nhỏ, đầy đủ các căn, tuy vậy một vài tưởng khác của người ấy khởi lên, một vài tưởng khác diệt xuống.
Này Potthapàda, với sự nhận thức này, cần phải hiểu tưởng khác, tự ngã khác.
Bạch Thế Tôn, con hiểu tự ngã là vô sắc, do tưởng sở thành.
Này Potthapàda, nếu tự ngã là vô sắc, do tưởng sở thành, với sự nhận thức này Potthapàda, cần phải hiểu tưởng khác, tự ngã khác.
Này Potthapàda, giả sự tự ngã là vô sắc, do tưởng sở thành, tuy vậy, một vài tưởng khác của người khởi lên, một vài tưởng khác diệt xuống.
Này Potthapàda, với sự nhận thức này, cần phải hiểu tưởng khác, tự ngã khác.
Bạch Thế Tôn, con có thể hiểu được chăng tưởng là tự ngã của con người hay tưởng khác, tự ngã khác?
Này Potthapàda, thật khó cho ngươi biết được tưởng là tự ngã của con người. Hay tưởng khác, tự ngã khác, vì ngươi có dị kiến, có tin tưởng khác, có lý tưởng khác, có thiên tư khác, có hạnh nguyện khác.
Bạch Thế Tôn, nếu thật khó cho con biết được tưởng là tự ngã của con người.
Hay tưởng khác, tự ngã khác vì con có dị kiến khác, có tin tưởng khác, có lý tưởng khác, có thiên tư khác, có hạnh nguyện khác, thời bạch Thế Tôn, Thế Giới có phải là thường còn không?
Chỉ có quan niệm này là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội không?
Này Potthapàda, ta không trả lời: Thế Giới là thường còn, chỉ có quan điểm này là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội.
Bạch Thế Tôn, có phải Thế Giới là vô thường, chỉ có quan điểm này là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội không?
Này Potthapàda, ta không trả lời: Thế Giới là vô thường, chỉ có quan điểm này là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội.
Bạch Thế Tôn, có phải Thế Giới này là hữu biên, chỉ có quan điểm này là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội không?
Này Potthapàda, ta không trả lời: Thế Giới là hữu biên, chỉ có quan điểm này là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội.
Bạch Thế Tôn, có phải Thế Giới là vô biên, chỉ có quan điểm này là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội không?
Này Potthapàda, ta không trả lời: Thế Giới là vô biên, chỉ có quan điểm này là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội.
Bạch Thế Tôn, có phải sinh mạng và thân thể là một, chỉ có quan điểm này là đúng sự thật, ngoài ra là mê muội không?
Này Potthapàda, ta không trả lời: Thân thể và sinh mạng là một, chỉ có quan điểm này là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội.
Bạch Thế Tôn, có phải sinh mạng khác, thân thể khác?
Chỉ có quan điểm này là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội không?
Này Potthapàda, ta không trả lời: Sinh mạng khác, thân thể khác. Chỉ có quan điểm này là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội.
Bạch Thế Tôn, có phải Như Lai tồn tại sau khi chết?
Chỉ có quan điểm này là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội không?
Này Potthapàda, ta không trả lời: Như Lai tồn tại sau khi chết. Chỉ có quan điểm này là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội.
Bạch Thế Tôn, có phải Như Lai không tồn tại sau khi chết không?
Chỉ có quan điểm này là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội không?
Này Potthapàda, ta không trả lời: Như Lai không tồn tại sau khi chết. Chỉ có quan điểm này là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội.
Bạch Thế Tôn, có phải Như Lai tồn tại và không tồn tại sau khi chết.
Chỉ có quan điểm này là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội không?
Này Potthapàda, ta không trả lời: Như Lai tồn tại và không tồn tại sau khi chết. Chỉ có quan điểm này là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội.
Bạch Thế Tôn, có phải Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết.
Chỉ có quan điểm này là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội không?
Này Potthapàda, ta không trả lời: Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết. Chỉ có quan điểm này là đúng sự thực, ngoài ra là mê muội.
Bạch Thế Tôn, vì sao Thế Tôn không trả lời?
Này Potthapàda, câu hỏi này không thuộc về đích giải thoát, không thuộc về pháp, không thuộc căn bản của phạm hạnh, không đưa đến yểm ly, đến ly tham, đến tịch diệt, đến tịch tịnh, đến thắng trí, đến giác ngộ, đến Niết Bàn.
Vì vậy, ta không trả lời.
Bạch Thế Tôn, vậy Thế Tôn trả lời những gì?
Này Potthapàda, Ta trả lời: Ðây là khổ.
Ta trả lời: Ðây là khổ tập.
Ta trả lời: Ðây là khổ diệt.
Ta trả lời: Ðây là con đường đưa đến khổ diệt.
Bạch Thế Tôn, vì sao Thế Tôn trả lời?
Này Potthapàda, câu hỏi này thuộc về đích giải thoát, thuộc về pháp, thuộc căn bản của phạm hạnh, đưa đến yểm ly, đến ly tham, đến tịch diệt, đến thắng trí, đến giác ngộ, đến Niết Bàn. Vì vậy ta trả lời.
Bạch Thế Tôn, như vậy là phải!
Bạch Thiên Thệ, như vậy là phải!
Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời Ngài làm gì Ngài xem là phải làm. Và Thế Tôn từ chỗ ngồi đứng dậy ra về.
Thế Tôn rời khỏi chưa bao lâu, những du sĩ ngoại đạo ấy liền bao vây xung quanh du sĩ ngoại đạo Potthapàda và tuôn ra những lời nói mỉa mai gay gắt: Potthapàda này là như vậy, những gì Sa Môn Gotama nói đều được Potthapàda tán thành: Bạch Thế Tôn, như vậy là phải! Bạch Thiện Thệ như vậy là phải!
Chúng tôi không được biết Sa Môn Gotama đã thuyết trình dứt khoát những vấn đề sau đây: Thế Giới là thường còn, hay Thế Giới là vô thường, hay Thế Giới là hữu biên, hay Thế Giới là vô biên, hay sinh mạng và thân thể là một.
Hay sinh mạng khác, thân thể khác, hay Như Lai có tồn tại sau khi chết hay Như Lai không tồn tại sau khi chết hay Như Lai tồn tại và cũng không tồn tại sau khi chết, hay Như Lai không tồn tại và cũng không không tồn tại sau khi chết.
Khi được nói vậy, du sĩ ngoại đạo Potthapàda nói với các du sĩ ngoại đạo kia: Này các Tôn Giả, tôi cũng không được biết Sa Môn Gotama đã thuyết trình dứt khoát những vấn đề sau đây: Thế Giới là thường còn, hay Thế Giới là vô thường, hay Thế Giới là hữu biên, hay Thế Giới là vô biên, hay Sinh mạng và thân thể là một, hay Sinh mạng khác, thân thể khác.
Hay Như Lai có tồn tại sau khi chết, hay Như Lai không có tồn tại sau khi chết, hay Như Lai có tồn tại và cũng không tồn tại sau khi chết, hay Như Lai không có tồn tại và cũng không không tồn tại sau khi chết.
***
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Sáu
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Năm
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Bốn
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Ba
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Hai
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Một