Phật Thuyết Kinh đại Phương Quảng Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi Căn Bản Nghi Quỹ - Phẩm Năm - Phẩm Pháp Thành Tựu Tối Thượng - Tập Năm

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Thiên Tức Tai, Đời Tống

PHẬT THUYẾT

KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG

BỒ TÁT TẠNG VĂN THÙ SƯ LỢI

CĂN BẢN NGHI QUỸ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Thiên Tức Tai, Đời Tống  

PHẨM NĂM

PHẨM PHÁP THÀNH TỰU

TỐI THƯỢNG  

TẬP NĂM  

Như vậy, A Xà Lê ở thôn xóm trong thành Vua xin thức ăn, quay về xong thì an trí cái bát ấy ở chỗ trong sạch. Liền ra bên ngoài phòng, dùng nước sạch không có loài trùng, đưa bàn tay trái tẩy rửa hai bàn chân.

Bàn chân đã sạch xong, lại lấy đất sạch tẩy rửa bàn tay, trì tụng Chân Ngôn bảy biến để làm gia trì, rồi dùng vật khí trong sạch chứa đầy phân mới của con bò vàng chưa rơi xuống đất, hòa chung với nước sạch không có loài trùng.

Ở trước mặt Đức Phật ấy làm bảy cái Mạn Noa La vuông vức, bằng phẳng ngay ngắn, hoặc rộng một khuỷu tay hoặc nửa khủy tay. Mạn Noa La thứ nhất rộng khoảng một khuỷu tay dùng phụng hiến Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Mạn Noa La thứ hai phụng hiến Bồ Tát, Mạn Noa La thứ ba phụng hiến Bản Tôn Chân Ngôn, Mạn Noa La thứ tư phụng hiến Bích Chi Phật, Mạn Noa La thứ năm phụng hiến Tam Bảo, Mạn Noa La thứ sáu phụng hiến tất cả Hiền Thánh, Mạn Noa La thứ bảy hiến cho tất cả chúng sinh khiến được lợi ích. nghi pháp như vậy, ngày ngày nên làm, chẳng được khuyết phạm.

Làm Mạn Noa La xong. Lại ở nơi vắng lặng, mật tụng Chân Ngôn rồi sám hối lần nữa. Sám xong thì đứng dậy, khiến người trong sạch kia lấy nước sạch không có loài trùng ở sông, ở suối… chứa đầy bên trong vật khí thanh tịnh, một lòng rửa tay, lại rửa đầu, mặt, lỗ tai, lỗ mũi…

Khiến cho tinh khiết, rồi súc miệng hai ba lần, trì tụng năm biến, liền nâng cái bát trống rỗng đi đến chỗ có dòng nước chảy, nguồn nước, sông, khe suối… như pháp rửa cái bát. Rửa xong thì quay về Viện, đem cái bát chứa đầy cơm đã xin được, lấy ra chút ít để cúng dường Phật với pháp giáo của Bản Tôn. Lại tụng Chân Ngôn.

Cái bát đã thọ dụng. Hoặc làm bằng vàng, bằng bạc, bằng đồng, bằng sành, hoặc lá cây… đều có thể làm Ứng Khí Pātra: Cái bát đựng thức ăn đúng theo pháp ấy. Đã lấy cơm trong cái bát cúng dường xong, lại chia ra một phần cho người đến sau, hoặc là người khách, hoặc là người nghèo khổ, chẳng được cho nhiều, cần phải lượng sức mà cho, chỉ sợ tự mình chẳng đủ mà bị giảm khí lực, có trở ngại cho việc trì tụng với tịnh tu.

Nếu là thức ăn đã phụng hiến Đức Phật thì tự mình chẳng được ăn, mà chuyển cho người nghèo hoặc nhóm phi cầm chim bay.

Nếu tự mình ăn thì chẳng được ăn quá no, khiến cho trì tụng thành bệnh. Thức ăn dư thừa thì đem cho các người nghèo khổ.

Như là Đức Phật nói: Tất cả chúng sinh dùng thức ăn làm mạng sống, đều y theo thức ăn mà trụ.

Giả sử hàng người Trời, A Tu La, Càn Thát Bà, Rồng, Dạ Xoa, Khẩn Na La, La Xoa, Quỷ đói, Tỳ Xá Tả, Bộ Đa, Ô Sa Đá La với hàng Tinh Diệu… chưa có ai chẳng y theo thức ăn để trụ mà chẳng ăn.

Hoặc là thức ăn uống tự nhiên, hoặc là tạo làm Đoàn Thực. Như Người, Trời ở Dục Giới Kāma dhātu chỉ là Đoạn Thực. Như thức ăn uống tinh tế màu nhiệm của Chư Thiên ở Sắc giới Rūpa dhātu thì dùng Thiền Định làm thức ăn.

Như Tứ Không Catu arūpa: Gồm có Hư Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ, Vô Sở Hữu Xứ, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ của cõi Vô Sắc Arūpa dhātu: Vô Sắc giới dùng Hương làm thức ăn.

Thế nên Đức Phật nói khiến các chúng sinh y theo thức ăn giúp cho thân tiến tu Đạo Pháp, trì tụng Pháp Giáo, tu các Phạm Hạnh, cung kính Thánh Hiền, hiếu dưỡng cha mẹ, cho đến thành Phật Đạo vô thượng, thành tựu chẳng khó.

Ví như có người, do thức ăn cung cấp mà có sức mạnh, dũng mãnh gánh vác việc nặng, trên con đường đi xa về phía trước, chẳng lấy làm khó. Hành Giả cũng thế, sức thân an kiện thời bên trên cầu bồ đề, bên dưới hóa độ hữu tình, làm lợi lạc lớn, cũng chẳng lấy làm khó.

Chính vì thế cho nên, ở đời quá khứ có Đức Phật Thế Tôn tên là Ca Diệp Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác Kāśyapa tathāgata arhate samyaksaṃbuddha vì tất cả chúng sinh nghèo khổ kia đối với ăn uống của mình, luôn bị thiếu thốn, khiến cho tâm bức bách, chịu nỗi khổ của cái đói… cho nên vì lợi ích của nhóm ấy mà tuyên nói Chân Ngôn tối thượng khiến cho được đầy đủ mọi loại thức ăn uống, tiêu trừ bệnh đói.

Đức Phật nói: Tất cả hàng Thanh Văn có Bồ Đề Hạnh Bodhi caryā mà muốn tiến tu thì cần phải mượn đoạn thực thức ăn được băm cắt có thể dùng tay bốc ăn để giữ thân mệnh. Nay, ông hãy nghe cho kỹ! Ta sẽ vì ông nói.

Lúc đó, chúng Thanh Văn trong Hội đều rất vui vẻ, rồi bạch Phật rằng: Thế Tôn Pháp Vương! Thật là hiếm có! Thương yêu giúp đỡ chúng sinh, là bậc nhất trong ba cõi. Nguyện xin nhiêu ích cho chúng con mà nói Chân Ngôn tối thượng này.

Bấy giờ Đức Thích Ca Mâu Ni liền nhận sự cầu thỉnh ầy, phát ra tiếng Ca Lăng Tần Già Kalaviṅka âm vang dội như tiếng trống sấm, bảo chúng Bộ Đa Bhūta rằng: Nay ông hãy nghe cho kỹ! Hết thảy Thế Giới ở mười phương, hiện tại đang tụ hội: Loài hai chân, bốn chân, nhiều chân, không có chân với tất cả chúng sinh thuộc quá khứ, vị lai. Nay Ta vì lợi lạc cho nhóm ấy, khiến được thức ăn uống đầy đủ dư thừa phong túc.

Liền nói Chân Ngôn mà Đức Ca Diệp Thế Tôn xưa kia đã nói:

Nẵng mạc tam mãn đá một đà nam, a bát la để hạ đá xá sa nẵng nam.

Đát nễ dã tha: Án, nga nga nễ, nga nga nẵng hiến nhạ, a nẵng dã, tát lý phộc hộ lô hộ lô, tam ma dã ma nỗ sa ma la, a ca lý sa ni, ma vĩ lăng phộc, ma vĩ lăng phộc, dã thể tất nhĩ đán, nhĩ, tam ba nại dã, sa phộc hạ.

Namaḥ sarva buddhānāṃ apratihataśāsanānāṃ.

Tadyathā: OṃGagane gagana gañje ānaya sarvaṃ, huru huru, samayamanusmara ākarṣaṇi, mā vilamba mā vilamba, yathepsitaṃ me sampādaya svāhā.

Bản Phạn thay huru huru bằng lahu lahu, và ghi nhận mā vilamba chỉ có một lần.

Bấy giờ, Đức Ca Diệp Thế Tôn Chánh Đẳng Chánh Giác nói Pháp Chân Ngôn rộng lớn này thời ở trong hư không dấy lên đám mây thức ăn uống lớn, che trùm khắp ba ngàn Đại Thiên Thế Giới.

Ở trong đám mây ấy tuôn xuống mọi loại thức ăn ngon khiến cho chúng sinh kia tùy theo ý lấy ăn, đều được no đủ, lìa các khổ của cái đói. Lại có người bị khát thì ở trong đám mây ấy tuôn xuống nước tám công đức, ở khoảng sát na khiến đều đầy đủ.

Thời tất cả đại chúng trong Hội khen rằng: Thật chưa từng có!

Vì sao trong đám mây lại có món ăn ngon này?

Là uy lực của Chân Ngôn bí mật vi diệu mà Đức Phật Thế Tôn đó đã nói đưa đến chăng?

Con được tùy vui, đội trên đỉnh đầu phụng hành. Liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi năm vóc sát đất, lễ bàn chân của Đức Phật rồi lui ra ngồi một bên.

Ta, Thích Ca Thế Tôn cũng vì nhiêu ích, thương nhớ chúng sinh, nói Chân Ngôn tối thượng của Nghi Quỹ Vương này, khiến cho tất cả chúng sinh đói khát kia được thức ăn uống đầy đủ.

Nếu người trì tụng, trước tiên nên y theo pháp, cầu thành hạnh thắng diệu của Chân Ngôn. Ở trên đỉnh núi, an trí tranh tượng Trung Phẩm của Thánh Diệu Cát Tường, dùng mọi loại hương, hoa, thức ăn uống… hiến cúng dường lớn. Người trì tụng mỗi ngày ăn ba món thức ăn màu trắng sữa, bơ, gạo, hoặc chỉ dùng sữa ăn cũng được.

Liền tụng Chân Ngôn mà Đức Ca Diếp Như Lai Chánh Đẳng Giác đã nói, bảy lạc xoa. Rồi đem gỗ Khư Nỉ La Khadira ẩm ướt gỗ Ưu Bát Đàm Audumbara ẩm ướt, gỗ Cát Tường Quả Śrī phala ẩm ướt đều dài một Xích 1/3 m lấy bơ, lạc, mật tẩm vào khiến cho thấm ướt, tụng Chân Ngôn lúc trước, làm Hộ Ma Homa tám ngàn lần.

Từ nửa đêm trở đi, ở trên Trời dấy lên đám mây gió đen. Người trì tụng ấy chẳng được sợ hãi, cũng chẳng được đứng dậy, chỉ tụng Thánh Diệu Cát Tường Bát Tự Tâm Chân Ngôn cùng với người đồng bạn Pháp Sự làm ủng hộ ấy thì đám mây gió đen kia tức liền tự tan.

Lại ở trong hư không hiện ra tướng người nữ, tất cả trang nghiêm, ánh sáng chiếu diệu, hướng về người tụng, nói: Ta được thành tựu. Ông, bậc Thượng Nhân hãy đứng dậy. Người tụng dùng hoa Nhạ Đế Jāti, hương… hiến nước Át Già.

Khi làm pháp này thời người nữ chẳng hiện. Như vậy tự mình cùng với hai mươi năm người đồng bạn, mong cầu thức ăn uống thì trời tự tuôn mưa xuống với vật tùy ý thọ dụng, đều được đầy đủ.

Người trì tụng hiến nước Át Già, phát khiển Hiền Thánh, nhiễu quanh tranh tượng ba vòng xong. Làm lễ Chư Phật, tất cả Bồ Tát.

Lại nữa, làm Pháp thành tựu của hàng đi trong hư không. Như trước kia đã nói mọi loại đất thanh tịnh, hoặc đất ở núi, hoặc biển. Người trì tụng với người đồng bạn y theo nghi tắc lúc trước trì tụng Chân Ngôn làm ủng hộ ấy. Đem bức tranh Trung Phẩm hướng mặt về phương Tây an trí.

Người trì tụng hướng mặt về phương Đông, ngồi trên tòa cỏ cát tường. Dùng cây Khư Nỉ La làm củi, đem hoa sen trắng, bơ, lạc, mật hòa hợp với nhau làm thành viên, làm tám ngàn viên để Hộ Ma. Mỗi ngày ba thời làm Hộ Ma, như vậy đến hai mươi mốt ngày, khi đến nửa đêm thời làm Pháp Hộ Ma xong.

Người trì tụng liền thấy Thánh Diệu Cát Tường, chỗ mong cầu đều được. Hoặc đi trong hư không, hoặc ẩn mất thân hình, hoặc đại phước trường thọ, hoặc được Vua yêu kính, cho đến thành tựu Địa bhūmi của Thanh Văn, Bích Phật Phật, Bồ Tát. Đối với năm Thần Thông cũng được thành tựu.

Nay, Đàn Pháp này có sức Đại Thắng, chỗ mong muốn đều được: Thỉnh triệu Thánh Hiền, phát khiển Thần Quỷ, Chú thành thuốc tiên với mọi loại lỗi lầm của ngu mê không có trí… do uy lực của Chân Ngôn cũng được giải thoát.

Lại nữa Đức Thích Ca Mâu Ni nói Pháp thành tựu của Trung Phẩm. Như trước đã nói Thắng Địa thanh tịnh. Hướng mặt về phương Tây an trí tranh tượng, người trì tụng hướng mặt về phương Đông, ngồi trên tòa cỏ cát tường.

Dùng hương, hoa cúng dường, rộng làm việc Pháp. Mỗi ngày ba thời, chí niệm Chân Ngôn. Như vậy số đủ sáu Lạc Xoa. Niệm Tụng xong rồi, dùng hoa Ca Ni Ca La Karṇikāra puṣpa, hương Bạch Đàn, Cung Câu Ma hòa hợp làm thành viên, làm trăm ngàn Hộ Ma.

Số ấy đã đủ thì bức tranh tự chấn động, lại phóng ra ánh sáng chiếu diệu khắp cả, chẳng bao lâu sẽ được địa vị của Tam Thập Tam Đế Thích Tridaśeśvaratvaṃ śakra. Nếu đem bức tranh này đội trên đỉnh đầu, thọ trì thì được vào Tam Địa Tribhūmi đủ năm Thần Thông, vì đời nói Pháp lại đến Thất Địa Sapta bhūmi cho đến vị lai được thành Chánh Giác.

Nếu người trì tụng y theo Nghi Quỹ lúc trước, làm pháp trì tụng đều được thành tựu. Như Chân Ngôn mà Đức Ca Diệp Thế Tôn đã nói, y theo pháp trì tụng thì mong cầu thức ăn ngon, nước tám công đức…quyết định thành tựu, tùy theo ý được đầy đủ dư thừa.

Nếy y theo Nghi Quỹ căn bản của Diệu Cát Tường, kết giới trì tụng thì mong cầu vàng, bạc, châu báu, ngạc báu Ma Ni, thuốc Tiên thượng diệu… không có gì chẳng thành tựu.

Như Pháp Hạnh của Nghi Quỹ trên, nếu A Xà Lê siêng tụng, tu tập thường được thành tựu.

Lại người trì tụng, nếu y theo pháp trì tụng thì mọi loại thức ăn uống đã xin được. Lúc nếu muốn ăn, trước tiên nên cúng Thánh Hiền, sinh xấu hổ sâu xa, rồi mới tự ăn. Nếu có thức ăn dư thì đưa vào trong dòng sông, hoặc nơi sạch sẽ không có người ban cho súc loại hữu tình. Cho xong, rửa bát, một lòng chuyên chú.

Nếu là cái bát sành, rửa xong thì hong cho khô. Ngoài ra, bát gỗ, bát vàng, bát bạc… thì rửa sạch sẽ không có dơ liền được thọ dụng. Nếu hơi dơ thì chẳng được sử dụng. Như Giáo Sắc của Đức Phật, cái bát dùng để khất thực chẳng được dùng chứa dựng vật tạp nhạp, cũng chẳng được dùng để ăn, cho đến hương, thuốc, quả trái… đều chẳng được chứa đựng.

Lại các vị Tỳ Khưu, nếu không có Ứng Khí Pātra. Hoặc dùng lá sen đựng thức ăn. Hoặc dùng lá hoa sen Padma patra, lá Ưu Bát La Utpala, lá Diệu Hương Hoa Saugandhika, lá Tối Thượng Hoa, lá Bố La Xoa Plakṣa, lá Ưu Đàm Bát Udumbara.

Nếu là lá với rễ, cành, nhánh của cây Nhược Ni Câu Đà Vaṭa thì chẳng được dùng. Lá cây Sa La Śāla, là cây A Một La Amra, lá cây Ba Tra La Pāṭala, lá cây Thất Lý Sa Śirīṣa, lá cây Bồ Đề Bodhi vṛkṣa đều chẳng được ở trong lá chứa đựng thức ăn.

Lại có nơi mà Đức Thích Ca Như Lai đã đi, đứng, ngồi, nằm…thì hết thảy cây cối hoa quả ở đấy chẳng được thọ dùng. Nếu có vi phạm tức phá Tam Muội của mình. Ngoài các lá lúc trước, còn lại lá cây khác thì hứa cho dùng đựng thức ăn.

Nếu là vật khí bằng đồng, bạc, vàng, thủy tinh, lưu ly với vật khí bằng sắt, đá… đều được dùng đựng thức ăn.

Lại nếu là hoa sen, hoặc các lá cây, hoặc đã cúng dường Chư Phật, Bồ Tát với Thanh Văn, Duyên Giác thì cũng chẳng được dùng.

Nếu người trì tụng, như lá cây đã nói lúc trước với lá hoa, lá cây đã cúng hiến Phật, chúng Thánh… đều chẳng được thọ dụng đựng thức ăn.

Nếu người cầu pháp trì tụng, thọ dụng thức ăn đựng trong lá cúng Phật thời pháp thành tựu của Hạ Phẩm, quyết định chẳng thành, huống chi là Trung Phẩm, Thượng Phẩm. Cát Tường, Tăng Ích, Tức Tai, Giáng Phục, tất cả việc ước nguyện, quyết định chẳng thành tựu.

Nếu có người ưa thích tu Tịnh Hạnh, tinh cần giữ giới được thành tựu tất cả Chân Ngôn thì hứa cho ăn chung. Nếu chẳng phải nhóm này thì chẳng được ăn chung, cũng chẳng được hô gọi lẫn nhau đi đến ăn chung. Nếu thức ăn xin được, tuy ít thì nên tác tưởng là đầy đủ.

Nếu các người trì tụng y theo Nghi Quỹ này, như vậy mà thực hành thì đối với tất cả Chân Ngôn cầu thành pháp, như quán thấy trong lòng bàn tay đều được thành tựu.

Các ông hãy nghe cho kỹ! Nay Ta lại nói uy lực rộng lớn của Khiết Tịnh Chân Ngôn. Nếu người trì tụng, niệm Chân Ngôn này bảy biến thì hết thảy thức ăn uống, dùng bàn tay đè lên, thành thức ăn tinh khiết, có thể được tự ăn. Thiên Nhân với chúng Bộ Đa ở trên thân ấy dùng bàn tay xoa chạm đè lên… đều thành Khiết Tịnh.

Chân Ngôn là:

Nẵng mạc tam mãn đá một đà nam, a bát la để hạ đá xá sa nẵng nam. Đát nễ dã tha: Án, tát lý phộc khẩn tức sa, nẵng xá nễ, nẵng xá dã, nẵng xá dã, tát lý phộc nột sắt tra, bát la dụ cật đán, tam ma dã nỗ sa ma la, hồng, nhược, sa phộc hạ.

Namaḥ sarva buddhānāṃ apratihataśāsanānāṃ.

Tadyathā: Oṃsarva kilbiṣa nāśani, nāśaya nāśaya, sarva duṣṭa prayuktāṃ samayam anusmara, hūṃ jaḥ svāhā.

Chân Ngôn này, nếu ăn xong, lại tụng bảy biến, dùng bàn tay xoa chạm thân của mình với trên đầu, rồi trải qua khoảng khắc, ở trước bức tranh ấy đọc tụng tất cả Kinh Điển: Kinh Phật Mẫu Bát Nhã Ārya prajñā pāramitā, Kinh Thánh Nguyệt Đăng Ārya candra pradīpa.

Kinh Tam Ma Địa Samādhi, Kinh Thập Địa Ārya daśabhūmaka, Kinh Kim Quang Minh Ārya suvarṇa prabha, Kinh Khổng Tước Vương Ārya mahā māyūrī, Kinh Bảo Tràng Đà La Ni ārya ratna ketudhāriṇī…

Nhóm Kinh như vậy, sáng sớm đọc tụng, đến giờ Ngọ thời tùy theo ý đọc nhiều ít, tức thời hồi hướng, thu lấy Kinh để trên cái Án, dùng cái áo sạch phủ trùm lên, làm lễ Kinh Quyển, rồi đi ra bờ sông, dùng tay nắm đất sạch, tụng Chân Ngôn này bảy biến, sau đó tắm rửa.

Lại nói Chân Ngôn là:

Nẵng mạc tam mãn đá một đà nam, a bát la để hạ đá xá sa nẵng nam.

Đát nễ dã tha: Án, tát lý phộc nột sắt trạm, bát la nột sắt trạm, sa đán bà dã, hồng, ấn nễ đạt la, đạt lý ni, câu ma la cát lý noa, lỗ bế ni, mãn đà mãn đà, tam ma dã ma noa sa ma la, phả tra, sa phộc hạ.

Namaḥ samanta buddhānāṃ apratihataśāsanānāṃ.

Tadyathā: Oṃsarva duṣṭāṃ praduṣṭaṃ stambhaya hūṃ, indīvaradhāriṇe kumāra krīḍa rūpa dhāriṇe, bandha bandha, samayam anusmara phaṭ svāhā.

Bản Phạn ghi nhận là:

NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀM APRATIHATAŚĀSANĀNĀM.

TADYATHĀ: OṂSARVA DUṢṬĀṂ STAMBHAYA HŪṂ, INDĪVARADHĀRIṆE KUMĀRA KRĪḌA RŪPA DHĀRIṆE, BANDHA BANDHA, SAMAYAM ANUSMARA SPHAṬ SPHAṬ SVĀHĀ.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần