Phật Thuyết Kinh đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm - Phẩm Ba Mươi Sáu - Phẩm Phổ Hiền Hạnh - Phần Một
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Thật Xoa Nan Đà, Đời Đường
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI PHƯƠNG
QUẢNG PHẬT HOA NGHIÊM
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Thật Xoa Nan Đà, Đời Đường
PHẨM BA MƯƠI SÁU
PHẨM PHỔ HIỀN HẠNH
PHẦN MỘT
Phổ Hiền Đại Bồ Tát lại bảo chúng hội Bồ Tát rằng: Chư Phật Tử! Như trước đã nói, đây chỉ là tùy theo căn khí thích nghi của chúng sanh mà lược nói ít phần cảnh giới của Như Lai.
Tại sao vậy?
Chư Phật Thế Tôn vì các chúng sanh vô trí làm ác, chấp ngã và ngã sở, chấp trước lấy thân, điên đảo nghi lầm, tà kiến phân biệt, hằng tương ưng với những kiết phược, theo dòng sanh tử, xa đạo Như Lai nên mới xuất thế.
Chư Phật Tử! Tôi không thấy một pháp nào là lỗi lầm lớn như Chư Bồ Tát sanh lòng sân với Bồ Tát khác.
Tại sao vậy?
Vì Chư Bồ Tát sanh lòng sân với Bồ Tát khác thời liền thành tựu trăm vạn chướng môn.
Những gì là trăm vạn chướng môn?
Chính là: Chướng chẳng thấy bồ đề, chướng chẳng nghe chánh pháp, chướng sanh vào Thế Giới bất tịnh, chướng sanh vào ác thú, chướng sanh vào chỗ nạn, chướng nhiều bệnh tật, chướng bị nhiều hủy báng, chướng sanh các loài ngoan độn, chướng hư mất chánh niệm, chướng khuyết thiếu trí huệ.
Nhãn chướng, nhĩ chướng, tỹ chướng, thiệt chướng, thân chướng, ý chướng, ác tri thức chướng, ác bạn đảng chướng, chướng thích tu tập tiểu thừa, chướng thích gần gũi phàm ngu, chướng chẳng tin ưa người có đại oai đức.
Chướng thích ở chung với người lìa chánh kiến, chướng sanh nhà ngoại đạo, chướng ở cảnh giới ma, chướng rời Phật Giáo, chướng chẳng thấy bạn lành, chướng thiện căn gặp nạn, chướng thêm pháp bất thiện, chướng sanh chỗ hạ liệt.
Chướng sanh biên địa, chướng sanh nhà người ác, chướng sanh trong ác thần, sanh trong ác Long, ác Dạ Xoa, ác Càn Thát Bà, ác A Tu La, ác Ca Lâu La, ác Khẩn Na La, ác Ma Hầu La Già, ác La Sát, chướng chẳng thích Phật Pháp, chướng thích tập việc trẻ con, chướng thích Tiểu Thừa.
Chướng chẳng ưa Ðại Thừa, chướng tánh hay kinh sợ, chướng tâm thường lo rầu, chướng ưa thích sanh tử, chướng chẳng chuyên Phật Pháp, chướng chẳng thích thấy nghe thần thông tự tại của Phật, chướng chẳng được những căn của Bồ Tát, chướng chẳng thật hành tịnh hạnh của Bồ Tát.
Chướng thối kiếp thâm tâm của Bồ Tát, chướng chẳng sanh đại nguyện của Bồ Tát, chướng chẳng pháp tâm nhất thiết trí, chướng lười biếng đối với Bồ Tát hạnh, chướng chẳng thể trừ sạch các nghiệp, chướng chẳng thể nhiếp thủ đại phước, chướng trí lực chẳng thể sáng lẹ, chướng đoạn trí huệ quảng đại.
Chướng chẳng hộ trì Bồ Tát hạnh, chướng ưa chê bai lời nhất thiết trí, chướng xa lìa Chư Phật bồ đề, chướng thích ở cảnh giới ma, chướng chẳng chuyên tu Phật cảnh giới, chướng chẳng quyết định phát hoằng thệ của Bồ Tát, chướng chẳng thích cùng ở với Bồ Tát.
Chướng chẳng cầu Bồ Tát thiện căn, chướng tánh nhiều nghi ngờ, chướng tâm thường ngu tối, chướng chẳng chịu xả vì không thể thật hành hạnh thí bình đẳng của Bồ Tát, chướng sanh phá giới vì chẳng giữ được Phật Giới.
Chướng khởi ngu si não hại sân hận vì chẳng vào được môn kham nhẫn, chướng sanh lười biếng vì chẳng thể thật hành Bồ Tát đại tinh tấn, chướng khởi tán loạn vì chẳng thể được những tam muội.
Chướng sanh ác huệ vì chẳng tu bát nhã Ba la mật, chướng ở trong xứ phi xứ chẳng thiện xảo, chướng ở trong sự độ sanh không phương tiện, chướng ở trong Bồ Tát trí huệ chẳng hay quán sát, chướng ở trong pháp Bồ Tát xuất ly chẳng hay rõ biết.
Chướng mắt như sanh manh vì chẳng thành tựu Bồ Tát mười thứ mắt quảng đại, chướng miệng như dê câm vì tai chẳng nghe pháp vô ngại, chướng tỹ căn hư hoại vì chẳng đủ tướng hảo, chướng thành tựu thiệt căn vì chẳng thể biện rõ ngôn của chúng sanh.
Chướng thành tựu thân căn vì khinh tiện chúng sanh, chướng thành tựu ý căn vì tâm nhiều cuồng loạn, chướng thành tựu thân nghiệp vì chẳng giữ ba thứ luật nghi, chướng thành tựu ngữ nghiệp vì hằng khởi bốn thứ tội lỗi, chướng thành tựu ý nghiệp vì nhiều tham sân tà kiến, chướng tặc tâm cầu pháp.
Chướng đoạn tuyệt cảnh giới Bồ Tát, chướng ở trong pháp Bồ Tát dũng mãnh sanh tâm thối khiếp, chướng ở trong đạo Bồ Tát xuất ly sanh lòng biếng trễ, chướng ở trong môn Bồ Tát trí huệ quang minh sanh lòng thôi dứt, chướng ở trong Bồ Tát niệm lực sanh lòng liệt nhược.
Chướng ở trong Như Lai giáo pháp chẳng hay Trụ Trì, chướng ở nơi đạo Bồ Tát ly sanh chẳng hay thân cận, chướng chẳng hay tu tập đạo Bồ Tát không hư mất, chướng tùy thuận chánh vị Nhị Thừa, chướng xa lìa chủng tánh tam thế Phật và Bồ Tát.
Chư Phật Tử! Nếu Bồ Tát đối với Bồ Tát mà sanh một tâm sân thời thành tựu trăm vạn chướng môn như vậy. Tôi chẳng thấy có một pháp nào lỗi ác lớn như Chư Bồ Tát sanh lòng sân với Bồ Tát khác.
Vì thế nên Chư Đại Bồ Tát muốn mau đầy đủ hạnh Bồ Tát phải siêng tu mười pháp:
Một là tâm chẳng xa bỏ tất cả chúng sanh.
Hai là đối với Chư Bồ Tát xem như Phật.
Ba là trọn chẳng hủy báng tất cả Phật Pháp.
Bốn là biết các Quốc Độ không có cùng tận.
Năm là rất có lòng tin mến nơi Bồ Tát hạnh.
Sáu là chẳng bỏ tâm bình đẳng hư không pháp giới bồ đề.
Bảy là quán sát bồ đề nhập Như Lai lực.
Tám là siêng năng tu tập vô ngại biện tài.
Chín là giáo hóa chúng sanh không nhàm mỏi.
Mười là trụ nơi tất cả Thế Giới không tâm nhiễm trước.
Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát an trụ trong mười pháp này rồi thời có thể đầy đủ mười thứ thanh tịnh:
Một là thông đạt thậm thâm pháp thanh tịnh.
Hai là thân cận thiện tri thức thanh tịnh.
Ba là hộ trì Chư Phật Pháp thanh tịnh.
Bốn là liễu đạt hư không giới thanh tịnh.
Năm là thâm nhập pháp giới thanh tịnh.
Sáu là quán sát vô biên tâm thanh tịnh.
Bảy là cùng Bồ Tát đồng thiện căn thanh tịnh.
Tám là chẳng chấp trước các kiếp thanh tịnh.
Chín là quán sát Tam Thế thanh tịnh.
Mười là tu hành tất cả những Phật Pháp thanh tịnh.
Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát trụ nơi mười pháp này rồi thời đầy đủ mười thứ trí quảng đại:
Một là trí biết tất cả tâm hành của chúng sanh.
Hai là trí biết tất cả nghiệp báo của chúng sanh.
Ba là trí biết tất cả Phật Pháp.
Bốn là trí biết lý thú thâm mật của tất cả Phật Pháp.
Năm là trí biết tất cả môn Đà La Ni.
Sáu là trí biết tất cả văn tự biện tài.
Bảy là trí biết tất cả ngôn ngữ âm thanh từ biện thiện xảo của chúng sanh.
Tám là trí hiện thân mình ở khắp trong tất cả Thế Giới.
Chín là trí hiện ảnh tượng mình ở khắp trong tất cả chúng hội Đạo Tràng.
Mười là trí ở nơi tất cả chỗ thọ sanh đều đầy đủ nhất thiết trí.
Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát trụ trong mười trí này rồi thời được mười thứ phổ nhập:
Một là tất cả Thế Giới vào một lỗ lông, một lỗ lông vào tất cả Thế Giới.
Hai là tất cả thân chúng sanh vào một thân, một thân vào tất cả thân chúng sanh.
Ba là tất cả kiếp vào một niệm, một niệm vào tất cả kiếp.
Bốn là tất cả Phật Pháp vào một pháp, một pháp vào tất cả Phật Pháp.
Năm là bất khả thuyết xứ vào một xứ, một xứ vào bất khả thuyết xứ.
Sáu là bất khả thuyết căn vào một căn, một căn vào bất khả thuyết căn.
Bảy là tất cả căn vào phi căn, phi căn vào tất cả căn.
Tám là tất cả tưởng vào một tưởng, một tưởng vào tất cả tưởng.
Chín là tất cả ngôn âm vào một ngôn âm, một ngôn âm vào tất cả ngôn âm.
Mười là tất cả Tam Thế vào một thế, một thế vào tất cả Tam Thế.
Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát quán sát như vậy rồi thời an trụ mười tâm thắng diệu:
Một là an trụ tâm thắng diệu tất cả Thế Giới ngữ ngôn phi ngữ ngôn.
Hai là an trụ tâm thắng diệu tất cả chúng sanh tưởng niệm không chỗ y chỉ.
Ba là an trụ tâm thắng diệu rốt ráo hư không giới.
Bốn là an trụ tâm thắng diệu vô biên pháp giới.
Năm là an trụ tâm thắng diệu tất cả Phật Pháp thâm mật.
Sáu là an trụ tâm thắng diệu pháp thậm thâm vô sai biệt.
Bảy là an trụ tâm thắng diệu trừ diệt tất cả nghi lầm.
Tám là an trụ tâm thắng diệu tất cả thế bình đẳng vô sai biệt.
Chín là an trụ tâm thắng diệu tam thế Chư Phật bình đẳng.
Mười là an trụ tâm thắng diệu tất cả Phật lực vô lượng.
Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát an trụ mười tâm thắng diệu này rồi thời được mười thứ Phật Pháp thiện xảo trí:
Một là trí thiện xảo liễu đạt và xuất sanh Phật Pháp thậm thâm quảng đại.
Hai là trí thiện xảo tuyên thuyết các thứ Phật Pháp.
Ba là trí thiện xảo chứng nhập Phật Pháp bình đẳng.
Bốn là trí thiện xảo minh liễu Phật Pháp sai biệt.
Năm là trí thiện xảo ngộ giải Phật Pháp vô sai biệt.
Sáu là trí thiện xảo thâm nhập trang nghiêm Phật Pháp.
Bảy là trí thiện xảo một phương tiện vào Phật Pháp.
Tám là trí thiện xảo vô lượng phương tiện vào Phật Pháp.
Chín là trí thiện xảo biết vô biên Phật Pháp vô sai biệt.
Mười là trí thiện xảo dùng tự tâm tự lực không thối chuyển nơi tất cả Phật Pháp.
Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát nghe pháp này rồi đều phải phát tâm cung kính thọ trì. Vì Đại Bồ Tát thọ trì pháp này ít tốn công lực mà mau được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đều được đầy đủ tất cả Phật Pháp, đều bằng với tam thế Phật Pháp.
Bấy giờ do thần lực của Phật, do pháp như vậy, mười phương đều có mười bất khả thuyết trăm ngàn ức na do tha Phật Sát Vi Trần Số Thế Giới chấn động sáu cách, mưa mây tất cả hoa hơn hẳn Chư Thiên, và mây hương, mây hương bột, y, lọng, Tràng, Phan, Ma Ni Bửu v.v… và cùng mây tất cả đồ trang nghiêm.
Mưa mây những kỹ nhạc, mây Chư Bồ Tát, mây bất khả thuyết sắc tướng của Như Lai, mây bất khả thuyết khen ngợi Đức Như Lai: Lành thay! Lại mưa mây âm thanh của Như Lai tràn đầy cả pháp giới, mây bất khả thuyết Thế Giới trang nghiêm, mây bất khả thuyết tăng trưởng bồ đề, mây bất khả thuyết quang minh chiếu diệu, mây bất khả thuyết thần lực thuyết pháp.
Như ở Thế Giới này thấy Đức Như Lai thành Ðẳng Chánh Giác nơi bồ đề tràng dưới cội bồ đề trong Bồ Tát cung điện diễn thuyết pháp này, tất cả Thế Giới trong mười phương cũng đều như vậy.
Bấy giờ do thần lực của Phật, do pháp như vậy, mười phương đều qua khỏi ngoài mười bất khả thuyết Phật sát vi trần số Thế Giới, có mười Phật sát vi trần số Đại Bồ Tát đến cõi này, đông đầy khắp mười phương, đồng nói rằng: Lành thay! Lành thay! Phật Tử Phổ Hiền có thể nói thâm pháp thọ ký thệ nguyện rất lớn của Như Lai.
Phật Tử! Chúng tôi tất cả đồng hiệu là Phổ Hiền đều từ Thế Giới Phổ Thắng nơi đức Phổ Tràng Tự Tại Như Lai mà đến cõi này, đều nhờ thần lực của Phật, diễn thuyết pháp này ở tất cả chỗ, tất cả đều bình đẳng như chỗ đã nói nơi chúng hội này không có thêm bớt. Chúng tôi đều thừa oai thần của Phật đến Đạo Tràng này chứng minh cho Phật Tử.
Như tại Đạo Tràng này, chúng tôi mười Phật sát vi trần số Đại Bồ Tát đến chứng minh, trong tất cả Thế Giới ở mười phương cũng đều như vậy.
Bấy giờ Phổ Hiền Đại Bồ Tát do thần lực của Phật, do sức thiện căn của mình, quán sát mười phương đến cả pháp giới, muốn khai thị Bồ Tát hạnh, muốn tuyên thuyết bồ đề giới của Như Lai, muốn nói đại nguyện giới, muốn nói tất cả Thế Giới kiếp số.
Muốn thuyết minh Chư Phật tùy thời nghi mà xuất thế, muốn nói Như Lai tùy chúng sanh căn cơ thuần thục mà xuất hiện cho họ cúng dường, muốn nói rõ Đức Như Lai xuất thế chẳng uổng công, muốn nói rõ đã gieo thiện căn tất được quả báo.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Bốn - Pháp Hội Tịnh Cư Thiên Thử - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Phật Bản Hạnh Tập - Phẩm Hai Mươi Chín - Phẩm Tinh Tấn Tu Khổ Hạnh - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Bảy - Phẩm Cảnh Giới Tự Thức