Phật Thuyết Kinh đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm - Phẩm Ba Mươi Tám - Phẩm Ly Thế Gian - Phần Sáu
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Thật Xoa Nan Đà, Đời Đường
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI PHƯƠNG
QUẢNG PHẬT HOA NGHIÊM
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Thật Xoa Nan Đà, Đời Đường
PHẨM BA MƯƠI TÁM
PHẨM LY THẾ GIAN
PHẦN SÁU
Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát có mười thứ trang nghiêm: Lực trang nghiêm, vì chẳng thể hư hoại. Vô úy trang nghiêm, vì hay dẹp phục. Nghĩa trang nghiêm, vì nói bất khả thuyết nghĩa vô cùng tận. Pháp trang nghiêm, vì quán sát diễn thuyết không quên mất tám vạn bốn ngàn pháp tu.
Nguyện trang nghiêm, vì không thối chuyển nơi hoằng thệ của Chư Bồ Tát đã phát. Hạnh trang nghiêm, vì tu hạnh Phổ Hiền mà xuất ly. Sát độ trang nghiêm, vì đem tất cả cõi làm một cõi. Phổ âm trang nghiêm, vì mưa pháp vũ cùng khắp tất cả Thế Giới của Chư Phật.
Lực trì trang nghiêm, vì trong tất cả kiếp thật hành vô số hạnh chẳng đoạn tuyệt. Biến hóa trang nghiêm, vì nơi thân một chúng sanh thị hiện thân bằng số tất cả chúng sanh, khiến tất cả chúng sanh đều thấy biết cầu nhất thiết trí không thối chuyển. Nếu Chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được tất cả pháp trang nghiêm vô thượng của Như Lai.
Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát phát mười tâm bất động:
Tâm bất động: Nơi tất cả sở hữu thảy đều xả được.
Tâm bất động: Tư duy quán sát tất cả Phật Pháp.
Tâm bất động: Ghi nhớ cúng dường tất cả Chư Phật.
Tâm bất động: Nơi tất cả chúng sanh thệ không não hại.
Tâm bất động: Khắp nhiếp chúng sanh chẳng lựa oán thân.
Tâm bất động: Cầu tất cả Phật Pháp không thôi nghỉ.
Tâm bất động: Số kiếp bằng số chúng sanh thật hành hạnh Bồ Tát chẳng mỏi nhàm, cũng không thối chuyển.
Tâm bất động: Thành tựu hữu căn tín, vô trược tín, thanh tịnh tín, cực thanh tịnh tín, ly cấu tín, minh triệt tín, cung kính cúng dường tất cả Chư Phật tín, bất thối chuyển tín, bất khả tận tín, vô năng hoại tín, đại hoan hỉ dũng dước tín.
Tâm bất động: Thành tựu đạo phương tiện xuất sanh nhất thiết trí.
Tâm bất động: Nghe tất cả Bồ Tát hạnh pháp thời tin thọ chẳng hủy báng.
Nếu Chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được tâm bất động nhất thiết trí vô thượng.
Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát có mười pháp chẳng bỏ tâm thâm đại:
Chẳng bỏ tâm thâm đại thành tựu viên mãn tất cả Phật bồ đề.
Chẳng bỏ tâm thâm đại giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh.
Chẳng bỏ tâm thâm đại chẳng dứt chủng tánh của Phật.
Chẳng bỏ tâm thâm đại gần gũi tất cả thiện tri thức.
Chẳng bỏ tâm thâm đại cúng dường tất cả Chư Phật.
Chẳng bỏ tâm thâm đại chuyên cầu tất cả pháp công đức đại thừa.
Chẳng bỏ tâm thâm đại ở chỗ Chư Phật tu phạm hạnh, hộ trì tịnh giới.
Chẳng bỏ tâm thâm đại thân cận tất cả Bồ Tát.
Chẳng bỏ tâm thâm đại cầu tất cả Phật Pháp phương tiện hộ trì.
Chẳng bỏ tâm thâm đại thành mãn tất cả Bồ Tát Hạnh Nguyện, chứa nhóm tất cả Phật Pháp.
Nếu Chư Bồ Tát an trụ trong đó thời có thể chẳng bỏ tất cả Phật Pháp.
Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát có mười trí huệ quán sát:
Trí huệ quán sát thiện xảo phân biệt diễn thuyết tất cả pháp.
Trí huệ quán sát biết rõ Tam Thế tất cả thiện căn.
Trí huệ quán sát biết rõ tất cả Bồ Tát hạnh biến hóa tự tại.
Trí huệ quán sát biết rõ nghĩa môn của tất cả pháp.
Trí huệ quán sát biết rõ oai lực của tất cả Chư Phật.
Trí huệ quán sát biết rõ tất cả môn Đà La Ni.
Trí huệ quán sát nơi tất cả Thế Giới khắp nói chánh pháp.
Trí huệ quán sát nhập tất cả pháp giới.
Trí huệ quán sát biết tất cả thập phương bất tư nghì.
Trí huệ quán sát biết tất cả Phật Pháp trí huệ Quang Minh Vô Ngại.
Nếu Chư Bồ Tát an trụ trong đó thời được trí huệ quán sát vô thượng của Như Lai.
Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát có mười thuyết pháp:
Nói tất cả pháp đều từ duyên khởi.
Nói tất cả pháp thảy đều như huyễn.
Nói tất cả pháp không chống trái.
Nói tất cả pháp không biên tế.
Nói tất cả pháp không y chỉ.
Nói tất cả pháp dường như Kim Cang.
Nói tất cả pháp thảy đều như như.
Nói tất cả pháp thảy đều tịch tịnh.
Nói tất cả pháp thảy đều xuất ly.
Nói tất cả pháp đều trụ một nghĩa bổn tánh thành tựu.
Nếu Chư Bồ Tát an trụ trong đây thời có thể thiện xảo nói tất cả pháp.
Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát có mười pháp thanh tịnh:
Thâm tâm thanh tịnh.
Ðoạn nghi thanh tịnh.
Ly kiến thanh tịnh.
Cảnh giới thanh tịnh.
Cầu nhất thiết trí thanh tịnh.
Biện tài thanh tịnh.
Vô úy thanh tịnh.
Trụ tất cả Bồ Tát trí thanh tịnh.
Thọ tất cả Bồ Tát luật nghi thanh tịnh.
Ðầy đủ thành tựu vô thượng bồ đề, ba mươi hai tướng trăm phước, pháp bạch tịnh, tất cả thiện căn thanh tịnh.
Nếu Chư Bồ Tát an trụ trong đó thời được pháp thanh tịnh vô thượng của tất cả Như Lai.
Chư Phật Tử Ðại Bồ Tát có mười ấn: Ðại Bồ Tát biết khổ khổ, hoại khổ, hành khổ, chuyên cầu Phật Pháp chẳng sanh giải đãi, thật hành bồ tát hạnh không mỏi lười, chẳng kinh sợ, chẳng bỏ đại nguyện cầu nhất thiết trí kiên cố bất thối rốt ráo vô thượng bồ đề. Ðây là ấn thứ nhất.
Ðại Bồ Tát thấy có chúng sanh ngu si cuồng loạn hoặc dùng lời ác thô tệ để hủy nhục, hoặc dùng dao gậy ngói đá để làm tổn hại, trọn không vì việc này mà bỏ tâm bồ tát, chỉ nhẫn nhục nhu hòa chuyên tu Phật Pháp, trụ đạo tối thắng, nhập ngôi ly sanh. Ðây là ấn thứ hai.
Ðại Bồ Tát nghe Phật Pháp thậm thâm tương ưng với nhất thiết trí, có thể dùng tự trí thâm tín nhẫn khả hiểu rõ xu nhập. Ðây là ấn thứ ba.
Ðại Bồ Tát lại nghĩ rằng: Tôi phát thâm tâm cầu nhất thiết trí, tôi sẽ thành Phật được vô thượng bồ đề. Tất cả chúng sanh lưu chuyển năm loài chịu vô lượng khổ, tôi cũng làm cho họ phát tâm bồ đề thâm tín hoan hỉ, siêng tu tinh tấn kiên cố bất thối. Ðây là ấn thứ tư.
Ðại Bồ Tát biết Như Lai trí vô biên nên chẳng dùng chừng ngằn đo lường. Tất cả văn tự thế gian nói ra đều có chừng ngằn, đều chẳng biết được Như Lai trí huệ. Ðây là ấn thứ năm.
Ðại Bồ Tát nơi vô thượng bồ đề được sự mong muốn tối thắng, sự mong muốn thậm thâm, sự mong muốn rộng, sự mong muốn lớn, nhiều sự mong muốn, sự mong muốn không gì hơn, sự mong muốn vô thượng, sự mong muốn kiên cố, sự mong muốn mà chúng ma ngoại đạo và quyến thuộc không phá hoại được, sự mong muốn cầu nhất thiết trí không thối chuyển. Bồ Tát an trụ nơi những sự mong muốn này nơi vô thượng bồ đề rốt ráo bất thối. Ðây là ấn thứ sáu.
Ðại Bồ Tát thật hành Bồ Tát hạnh chẳng kể thân mạng không gì trở hoại được, vì phát tâm xu hướng nhất thiết trí, vì nhất thiết trí tánh thường hiện tiền, vì được tất cả Phật Trí Quang Minh, trọn chẳng bỏ rời Phật bồ đề, trọn chẳng bỏ rời thiện tri thức. Ðây là ấn thứ bảy.
Ðại Bồ Tát nếu thấy Thiện Nam Tử Thiện Nữ Nhân xu hướng đại thừa, thời làm cho họ tăng trưởng tâm cầu Phật Pháp, khiến họ an trụ tất cả thiện căn, khiến họ nhiếp thủ tâm nhất thiết trí, khiến họ bất thối vô thượng bồ đề. Ðây là ấn thứ tám.
Ðại Bồ Tát làm cho tất cả chúng sanh được tâm bình đẳng, khuy khiến siêng tu đạo nhất thiết trí, dùng tâm đại bi mà vì họ thuyết pháp, khiến họ trọn chẳng thối chuyển nơi vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Ðây là ấn thứ chín.
Ðại Bồ Tát cùng Tam Thế Chư Phật đồng một thiện căn, chẳng dứt chủng tánh của tất cả Chư Phật, rốt ráo được đến Nhất thiết chủng trí. Ðây là ấn thứ mười.
Bồ Tát dùng mười ấn này mau thành Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, đầy đủ trí ấn nhất thiết pháp vô thượng của Như Lai.
Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát có mười trí quang chiếu:
Trí quang chiếu quyết định sẽ thành vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.
Trí quang chiếu thấy tất cả Phật.
Trí quang chiếu thấy tất cả chúng sanh chết đây sanh kia.
Trí quang chiếu hiểu tất cả Tu Đa La pháp môn.
Trí quang chiếu y chỉ thiện tri thức phát tâm bồ đề tích tập thiện căn.
Trí quang chiếu thị hiện tất cả Chư Phật.
Trí quang chiếu giáo hóa tất cả chúng sanh đều khiến an trụ Như Lai địa.
Trí quang chiếu diễn thuyết bất tư nghì quảng đại pháp môn.
Trí quang chiếu thiện xảo biết rõ tất cả Chư Phật thần thông oai lực.
Trí quang chiếu đầy đủ tất cả các Ba la mật.
Nếu Chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được trí quang chiếu vô thượng của tất cả Chư Phật.
Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát có mười vô đẳng trụ, tất cả chúng sanh, Thanh Văn, Độc Giác đều không sánh bằng:
Ðại Bồ Tát dầu quán thiệt tế mà không thủ chứng, vì tất cả nguyện chưa thành tựu viên mãn. Ðây là vô đẳng trụ thứ nhất.
Ðại Bồ Tát gieo tất cả thiện căn đồng pháp giới, mà ở trong đó chẳng có một chút chấp lấy. Ðây là Vô Đẳng Trụ thứ hai.
Ðại Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh biết đó như hóa, bởi tất cả pháp đều tịch diệt, mà chẳng nghi hoặc nơi Phật Pháp. Ðây là vô đẳng trụ thứ ba.
Ðại Bồ Tát dầu rời những vọng tưởng thế gian, nhưng hay tác ý trong bất khả thuyết kiếp thật hành hạnh Bồ Tát đầy đủ đại nguyện, trong khoảng giữa trọn chẳng sanh tâm mỏi nhàm. Ðây là vô đẳng trụ thứ tư.
Ðại Bồ Tát nơi tất cả pháp không chấp trước, vì tất cả pháp bổn tánh tịch diệt. Mà chẳng chứng niết bàn vì đạo nhất thiết trí chưa thành mãn. Ðây là vô đẳng trụ thứ năm.
Ðại Bồ Tát biết tất cả kiếp đều là phi kiếp, mà chân thật nói tất cả kiếp số. Ðây là vô đẳng trụ thứ sáu.
Ðại Bồ Tát biết tất cả pháp đều vô tác, mà chẳng bỏ thật hành đạo hạnh cầu tất cả Phật Pháp. Ðây là vô đẳng trụ thứ bảy.
Ðại Bồ Tát biết tam giới duy tâm, Tam Thế duy tâm, mà biết rõ tâm đó vô lượng vô biên. Ðây là vô đẳng trụ thứ tám.
Ðại Bồ Tát vì một chúng sanh, trong bất khả thuyết kiếp thật hành hạnh Bồ Tát, muốn cho chúng sanh đó an trụ bậc nhất thiết trí. Như vì một chúng sanh, vì tất cả chúng sanh cũng như vậy, mà chẳng nhàm mỏi. Ðây là vô đẳng trụ thứ chín.
Ðại Bồ Tát dầu tu hành viên mãn mà chẳng chứng bồ đề. Vì Bồ Tát nghĩ rằng tôi tu hành vốn là vì chúng sanh, thế nên tôi phải ở lâu nơi sanh tử phương tiện làm lợi ích cho họ đều an trụ Phật Đạo vô thượng. Ðây là vô đẳng trụ thứ mười.
Nếu Chư Bồ Tát an trụ trong đây thời được đại trí vô thượng, tất cả Phật Pháp Vô Đẳng Trụ.
Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát phát mười tâm chẳng hạ liệt:
Ðại Bồ Tát nghĩ rằng: Tôi sẽ hàng phục tất cả Thiên ma và quyến thuộc của chúng.
Lại nghĩ rằng: Tôi sẽ phá tất cả ngoại đạo và tà pháp của họ.
Lại nghĩ rằng: Tôi sẽ ở nơi tất cả chúng sanh dùng lời khéo lành để khai thị dạy bảo cho họ đều hoan hỷ.
Lại nghĩ rằng: Tôi sẽ thành mãn tất cả hạnh Ba la mật khắp pháp giới.
Lại nghĩ rằng: Tôi sẽ tích tập tạng tất cả phước đức.
Lại nghĩ rằng: Vô Thượng bồ đề quảng đại khó thành, tôi sẽ tu hành đến viên mãn.
Lại nghĩ rằng: Tôi sẽ dùng sự giáo hóa vô thượng, sự điều phục vô thượng để giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh.
Lại nghĩ rằng: Tất cả Thế Giới nhiều thứ chẳng đồng, tôi sẽ dùng vô lượng thân thành Ðẳng Chánh Giác.
Lại nghĩ rằng: Lúc tôi tu Bồ Tát hạnh, nếu có chúng sanh đến xin tôi những tay, chân, tai, mũi, máu, thịt, xương, tủy, vợ, con, voi, ngựa, nhẫn đến ngôi Vua. Tất cả như vậy thảy đều có thể bỏ, chẳng sanh một niệm tâm lo lắng ăn năn, chỉ vì lợi ích tất cả chúng sanh chẳng cầu quả báo, lấy đại bi làm đầu, đại từ cứu cánh.
Lại nghĩ rằng: Tam Thế có tất cả Chư Phật, tất cả Phật Pháp, tất cả chúng sanh, tất cả Quốc Độ, tất cả Thế Giới, tất cả Tam Thế, tất cả hư không giới, tất cả pháp giới, tất cả ngữ ngôn thi thiết giới, tất cả tịch diệt Niết Bàn giới, tất cả pháp như vậy, tôi phải dùng một niệm tương ưng huệ đều biết, đều thấy, đều chứng, đều tu, đều đoạn.
Nhưng ở trong đó vô phân biệt, lìa phân biệt, không các thứ sai biệt, không công đức, không cảnh giới, chẳng có chẳng không, chẳng một chẳng hai, do trí chẳng hai biết tất cả hai, do trí vô tướng biết tất cả tướng, do trí vô phân biệt biết tất cả phân biệt, do trí vô dị biết tất cả dị.
Do trí không sai biệt biết tất cả sai biệt, do trí không thế gian biết tất cả thế gian, do trí không thế biết tất cả thế, do trí không chúng sanh biết tất cả chúng sanh, do trí không chấp trước biết tất cả chấp trước, do trí vô trụ xứ biết tất cả trụ xứ, do trí không tạp nhiễm biết tất cả tạp nhiễm.
Do trí vô tận biết tất cả tận, do trí cứu cánh pháp giới biết tất cả Thế Giới thị hiện thân, do trí lìa ngôn âm thị hiện bất khả thuyết ngôn âm, do trí một tự tánh nhập nơi không tự tánh.
Do trí một cảnh giới hiện các thứ cảnh giới, biết tất cả pháp bất khả thuyết mà hiện đại tự tại ngôn thuyết, chứng bậc nhất thiết trí, vì giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh nên ở nơi tất cả thế gian thị hiện đại thần thông biến hóa. Ðây là mười tâm không hạ liệt của Đại Bồ Tát phát. Nếu Chư Bồ Tát an trụ tâm này thời được tất cả Phật Pháp tối thượng không hạ liệt.
Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát nơi vô thượng bồ đề có mười tâm tăng thượng như núi:
Ðại Bồ Tát thường tác ý siêng tu pháp nhất thiết trí. Ðây là tâm tăng thượng như núi thứ nhất.
Hằng quán sát tất cả pháp bổn tánh trống không vô sở đắc. Ðây là tâm tăng thượng như núi thứ hai.
Nguyện trong vô lượng kiếp thật hành hạnh Bồ Tát tu tất cả pháp bạch tịnh. Do trụ nơi tất cả pháp bạch tịnh nên thấy biết Như Lai vô lượng trí huệ. Ðây là tâm tăng thượng như núi thứ ba.
Vì cầu tất cả Phật Pháp nên tâm bình đẳng kính thờ chư thiện tri thức, không trông cầu gì khác, không tâm trộm pháp, chỉ sanh lòng tôn trọng vị tằng hữu, tất cả sở hữu thảy đều bỏ được. Ðây là tâm tăng thượng như núi thứ tư.
Nếu có chúng sanh mắng nhục, hủy báng, đánh đập, cắt chém, làm thân hình Bồ Tát khổ đau nhẫn đến chết. Những sự trên đây Bồ Tát đều nhẫn chịu được, trọn không sanh lòng động loạn, lòng sân hại, cũng chẳng thối bỏ hoằng thệ đại bi, trái lại càng thêm tăng trưởng không thôi ngớt. Vì Bồ Tát nơi tất cả pháp như thiệt xuất ly, thành tựu hạnh xả, vì chứng được tất cả Phật Pháp, nhẫn nhục nhu hòa đã tự tại. Ðây là tâm tăng thượng như núi thứ năm.
Bồ Tát thành tựu đại công đức tăng thượng. Những là thiên tăng thượng công đức, nhân tăng thượng công đức, sắc tăng thượng công đức, lực tăng thượng công đức, quyến thuộc tăng thượng công đức, dục tăng thượng công đức, vương vị tăng thượng công đức, tự tại tăng thượng công đức, phước đức tăng thượng công đức, trí huệ tăng thượng công đức.
Dầu thành tựu những công đức như vậy, nhưng chẳng sanh lòng nhiễm trước nơi những công đức đó. Chẳng nhiễm trước mùi vị, chẳng nhiễm trước dục lạc, chẳng nhiễm trước của giàu, chẳng nhiễm trước quyến thuộc.
Chỉ rất mến thích nơi pháp, đi theo pháp, đứng theo pháp, xu hướng theo pháp, rốt ráo theo pháp. Dùng pháp làm y chỉ, dùng pháp làm cứu hộ, dùng pháp làm quy y, dùng pháp làm nhà. Gìn giữ pháp, mến ưa pháp, trông cầu pháp, suy gẫm pháp.
Dầu thọ đủ những pháp lạc mà thường xa lìa cảnh giới của chúng ma, vì từ quá khứ Bồ Tát phát tâm như vậy: Tôi sẽ làm cho tất cả chúng sanh thảy đều xa lìa cảnh giới của chúng ma mà an trụ nơi cảnh giới Phật. Ðây là tâm tăng thượng như núi thứ sáu.
Ðại Bồ Tát vì đã cầu vô thượng bồ đề, trong vô lượng vô số kiếp thật hành đạo Bồ Tát siêng năng tinh tấn, mà còn cho là tôi nay mới phát tâm vô thượng bồ đề thật hành hạnh Bồ Tát, cũng chẳng kinh sợ.
Dầu có thể khoảng một niệm liền thành Vô Thượng, Chánh Giác, nhưng vì chúng sanh nên trong vô lượng kiếp thật hành Bồ Tát hạnh không thôi nghỉ. Ðây là tâm tăng thượng như núi thứ bảy.
Ðại Bồ Tát biết tất cả chúng sanh tánh chẳng hòa chẳng lành, khó điều khó độ, chẳng biết ơn chẳng báo ân. Thế nên Bồ Tát vì họ mà phát đại thệ nguyện, muốn cho họ đều được tâm ý tự tại, chỗ làm vô ngại, lìa bỏ ác niệm, chẳng sanh phiền não đối với người khác. Ðây là tâm tăng thượng như núi thứ tám.
Ðại Bồ Tát lại nghĩ rằng: Chẳng phải ai khác khiến tôi phát tâm bồ đề, cũng chẳng chờ người khác giúp tôi tu hành. Tôi tự phát tâm tích tập Phật Pháp, thề hẹn tự cố gắng tột kiếp vị lai thật hành đạo Bồ Tát thành vô thượng bồ đề.
Thế nên nay tôi tu hạnh Bồ Tát phải thanh tịnh tự tâm cũng thanh tịnh tha tâm, phải biết cảnh giới của mình cũng biết cảnh giới của người. Tôi phải đều bình đẳng với cảnh của Tam Thế Chư Phật. Ðây là tâm tăng thượng như núi thứ chín.
Ðại Bồ Tát qúan sát như vậy: Không có một pháp tu hạnh Bồ Tát, không có một pháp viên mãn hạnh Bồ Tát, không có mộ pháp giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh, không có một pháp cung kính cúng dường tất cả Chư Phật, không có một pháp ở nơi vô thượng bồ đề đã thành, hiện thành, sẽ thành, không có một pháp đã nói, hiện nói, sẽ nói.
Người nói và pháp đều bất khả đắc, nhưng cũng chẳng bỏ nguyện vô thượng bồ đề. Vì Bồ Tát cầu tất cầu tất cả pháp đều vô sở đắc, như vậy xuất sanh vô thượng bồ đề. Thế nên nơi pháp dầu vô sở đắc mà siêng tu tập pháp đối trị tăng thượng thiện nghiệp thanh tịnh, trí huệ viên mản niệm niệm tăng trưởng tất cả đầy đủ. Nơi đây lòng Bồ Tát chẳng kinh sợ.
Chẳng nghỉ rằng: Nếu tất cả pháp thảy đều tịch diệt thời tôi có nghỉa gì mà cầu đạo vô thượng bồ đề. Ðây là tâm tăng thượng bồ đề. Ðây là tâm tăng thượng như núi thứ mười. Nếu như Bồ Tát an trụ trong đây thời được tâm tăng thượng như sơn vương. Ðại trí vô thượng của Như Lai.
Chư Phật Tử! Ðại Bồ Tát có mười trí như biển nhập vô thượng bồ đề:
Trí như biển nhập tất cả vô lượng chúng sanh giới.
Trí như biển nhập tất cả Thế Giới mà chẳng sanh tâm phân biệt.
Trí như biển biết tất cả hư không giới vô lượng vô ngại vào khắp lưới tất cả Thế Giới sai biệt ở mười phương.
Trí như biển khéo nhập pháp giới. Những là nhập vô ngại, nhập chẳng đoạn, nhập chẳng thường, nhập vô lượng, nhập chẳng sanh, nhập chẳng diệt, nhập tất cả, vì đều biết rõ vậy.
Trí như biển nơi quá khứ vị lai hiện tại Chư Phật, Bồ Tát, Pháp Sư, Thanh Văn, Ðộc Giác và tất cả phàm phu chứa nhóm thiện căn, đã nhóm, sẽ nhóm, Tam Thế Chư Phật đã thành, nay thành và sẽ thành vô thượng bồ đề, Tam Thế Chư Phật thuyết pháp điều phục tất cả chúng sanh, đã nói, nay nói, sẽ nói. Có bao nhiêu thiện căn, Bồ Tát đều rõ biết tất cả, thâm tín tùy hỉ, nguyện thích tu tập không nhàm đủ.
Trí như biển trong mỗi niệm nhập quá khứ thế bất khả thuyết kiếp. Ở trong một kiếp hoặc có trăm ức Phật xuất thế, hoặc có ngàn ức Phật xuất thế, hoặc trăm ngàn ức Phật xuất thế, hoặc có vô số, hoặc vô lượng, hoặc vô biên, hoặc vô đẳng, hoặc bất khả sổ, hoặc bất khả xưng, hoặc bất khả tư, hoặc bất khả lượng, hoặc bất khả thuyết, hoặc bất khả thuyết bất khả thuyết, siêu quá toán số Chư Phật Thế Tôn xuất hiện ra đời.
Và Đạo Tràng, chúng hội Thanh Văn, Bồ Tát, thuyết pháp điều phục tất cả chúng sanh, thọ mạng dài vắn, pháp trụ lâu mau. Tất cả như vậy thảy đều thấy rõ. Như một kiếp, tất cả các kiếp cũng đều thấy rõ như vậy. Những kiếp không Phật, có những chúng sanh gieo căn lành nơi vô thượng bồ đề cũng đều biết rõ.
Nếu có chúng sanh thiện căn đã thành thục nơi đời vị lai sẽ được thấy Phật cũng đều biết rõ. Quán sát quá khứ thế bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp như vậy tâm không nhàm đủ.
Trí như biển nhập vị lai thế quán sát tất cả kiếp vô lượng vô biên, biết kiếp nào có Phật, kiếp nào không Phật, kiếp nào có bao nhiêu Như Lai xuất thế.
Mỗi Như lai Danh Hiệu gì, ở Thế Giới nào, Thế Giới tên gì, độ bao nhiêu chúng sanh, thọ mạng bao nhiêu thời gian. Quán sát như vậy tột vị lai tế đều biết rõ tất cả chẳng cùng tận mà không nhàm đủ. Trí như biển nhập hiện tại thế quán sát tư duy. Trong mỗi niệm thấy khắp vô biên phẩm loại mười phương.
Nơi bất khả thuyết Thế Giới đều có Chư Phật nơi vô thượng bồ đề đã thành, nay thành, sẽ thành, đi đến Đạo Tràng dưới cây bồ đề, ngồi trên cỏ kiết tường hàng phục ma quân, thành Ðẳng Chánh Giác.
Rời cây bồ đề vào thành ấp, lên cung Trời chuyển đại pháp luân, thị hiện thần thông điều phục chúng sanh, nhẫn đến phó chúc vô thượng bồ đề, xả thọ mạng nhập niết bàn. Ðã nhập Niết Bàn kiết tập pháp tạng khiến còn ở lâu tại thế gian.
Trang nghiêm Phật Pháp nhiều thứ cúng dường. Cũng thấy Thế Giới kia, tất cả chúng sanh gặp Phật, nghe pháp, thọ trì cúng tụng nghi nhớ tư duy tăng trưởng huệ giải. Quán sát cùng khắp mười phương, mà ở nơi Phật Pháp không sai lầm. Vì vậy Bồ tát biết rõ Chư Phật thảy đều như mộng, mà hay đến chỗ Chư Phật cung kính cúng dường.
Bấy giờ Bồ Tát chẳng chấp tự thân, chẳng chấp nơi Phật, chẳng chấp Thế Giới, chẳng chấp chúng hội, chẳng chấp thuyết pháp, chẳng chấp kiếp số, nhưng vẫn thấy Phật, nghe pháp, giám sát Thế Giới vào các kiếp số không nhàn đủ.
Trí như biển nơi bất khả, bất khả thuyết kiếp, trong mỗi mỗi kiếp cúng dường cung kính bất khả thuyết bất khả kiếp vô lượng Chư Phật, thị hiện tự thân mất đây sanh kia, đem tất cả đồ cúng hơn hẳn tam giới để cúng dường Phật, cúng dường Bồ Tát, Thanh Văn, tất cả đại chúng.
Sau khi mỗi Đức Như Lai nhập Niết Bàn, Bồ Tát đều dùng đồ cúng vô thượng để cúng dường Xá Lợi và rộng làm sự bố thí để chúng sanh được đầy đủ.
Ðại Bồ Tát dùng tâm bất tư nghì, tâm chẳng cầu báo, tâm rốt ráo, tâm nhiêu ích, trong bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp vì vô thượng bồ đề mà cúng dường Chư Phật, lợi ích chúng sanh, hộ trì chánh pháp khai thị diễn thuyết.
Trí như biển ngay chỗ của tất cả Phật, chỗ của tất cả Bồ Tát, chỗ của tất cả Pháp Sư, nhất hướng chuyên cầu pháp của Bồ Tát đã thuyết, pháp của Bồ Tát đã học, pháp của Bồ Tát đã dạy, pháp của Bồ Tát tu hành.
pháp của Bồ Tát thanh tịnh, pháp của Bồ Tát thành phục, pháp của Bồ Tát điều phục, pháp bình đẳng của Bồ Tát, pháp xuất ly của Bồ Tát, pháp tổng trì của Bồ Tát.
Ðược pháp này rồi, Bồ Tát thọ trì đọc tụng phân biệt giải thuyết không nhàm đủ, trí vô lượng chúng sanh trong Phật Pháp phát tâm tương ứng với nhất thuyết trí nhập tướng chân thật. Nơi vô thượng bồ Ðề được bất hối chuyển. Như vậy trong bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp không nhàm đủ.
Ðây là mười trí như biển nhặt vô thượng bồ đề của Đại Bồ Tát, nếu Chư Bồ Tát an trụ pháp này thì được biển đại trí huệ vô thượng của tất cả Chư Phật.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Pháp Cú Thí Dụ - Phẩm Mười Sáu - Phẩm Minh Triết - Thí Dụ Ba Mươi Ba
Phật Thuyết Kinh Cửu Phẩm Vãng Sanh A Di đà Tam Ma địa Tập đà Ra Ni
Phật Thuyết Kinh Dần đủ Tất Cả Trí đức - Phẩm Mười - Trụ Pháp Vũ - Tập Ba
Phật Thuyết Kinh Tô Tất địa Yết La - Phẩm Ba Mươi Bảy - Phẩm Bị Thâu Thành Vật Khước Trưng Pháp
Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Năm - Kinh Tập - Chương Ba - đại Phẩm - Kinh Naflaka
Phật Thuyết Kinh Tập Nhất Thiết Phước đức Tam Muội - Phần Bảy
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Hai - Phẩm Sáu Mươi Mốt - Phẩm đồng Học