Phật Thuyết Kinh đại Thừa Bản Sinh Tâm địa Quán - Phẩm Ba - Phẩm Yếm Xả - Phần Hai

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Bát Nhã, Đời Đường

PHẬT THUYẾT KINH ĐẠI THỪA

BẢN SINH TÂM ĐỊA QUÁN

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Bát Nhã, Đời Đường  

PHẨM BA

PHẨM YẾM XẢ  

PHẦN HAI  

Khi ấy, Đức Như Lai nói lại ý nghĩa trên bằng lời kệ:

Bồ Tát xuất gia quán tại gia

Cũng như gió dữ không hề dừng

Cũng như vọng chấp trăng trong nước

So tính phân biệt lấy làm thực.

Trong nước bản lai không bóng trăng

Nước tịnh là duyên thấy trăng thực.

Các pháp duyên sinh đều là giả

Phàm ngu vọng chấp cho là ta

Cái ấy theo duyên, pháp không thực

Vọng tưởng phân biệt chấp là có.

Nếu hay dứt trừ được hai chấp

Sẽ chứng Vô Thượng Đại Bồ Đề.

Vọng tưởng tình phàm như hắc phong

Thổi rừng sinh tử niệm niệm khởi

Bốn quỷ điên đảo thường theo đuổi

Khiến tạo năm thứ nhân Vô gián.

Ba căn bất thiện hiện ràng buộc

Sinh tử luân hồi luôn nối nhau

Nếu người nghe Kinh, tin, hiểu sâu

Chánh kiến hay trừ tâm điên đảo

Hạt giống Bồ Đề niệm niệm sinh

Đại trí thần thông tam muội khởi.

Nếu tu tập được quán thâm diệu

Hoặc, nghiệp, quả khổ đâu khởi được?

Chỉ quán thực tướng chân tánh như

Năng, sở đều mất, bỏ mọi kiến.

Tánh tướng nam, nữ bản lai không

Vọng chấp theo duyên sinh hai hướng.

Như Lai dứt hẳn nhân vọng tưởng

Chân tánh vốn không tướng nam, nữ.

Diệu quả bồ đề chứng đều đồng

Phàm phu vọng chấp sinh tướng khác.

Ba mươi hai tướng vốn phi tướng.

Liễu tướng, phi tướng là thực tướng.

Nếu người xuất gia tu phạm hạnh

Nhiếp tâm tịch tĩnh chốn không nhàn

Đó là Bồ Tát tâm chân tịnh

Không lâu sẽ chứng bồ đề quả.

Lại nữa thiện nam, Bồ Tát xuất gia ngày đêm thường quán nhà cửa của thế gian tất cả là chỗ sinh ra phiền não.

Sao vậy?

Như có một người xây dựng được tám ngôi nhà, đem các vật báu mà tự trang nghiêm cho những căn nhà ấy.

Dựng nhà xong, người ấy nghĩ rằng: Nay nhà cửa là vật sở hữu của ta, không lệ thuộc vào người khác, chỉ có nhà cửa của ta là tốt đẹp hơn hết, nhà cửa của người khác không thể sánh kịp. Do chấp trước như thế, nên sinh ra phiền não. Do phiền não từ chấp ngã, ngã sở làm căn bản, mà tám vạn bốn ngàn cửa trần lao cùng nhau đua khởi, chật cả trong nhà.

Sở dĩ thế là sao?

Phàm phu tại gia tham đắm sâu nặng về năm dục, vợ con, họ hàng, tôi trai, tớ gái, người hầu thảy đều gồm đủ. Vì nhân duyên ấy, nên dấy ra bao sự khổ về sinh, lão, bệnh, tử, lo, buồn, sầu, não, oán ghét hợp hội, ân ái, biệt ly, nghèo cùng và mọi sự suy vi, cầu không được…

Các khổ như thế như bóng theo hình, như vang ứng tiếng, đời đời nối tiếp nhau luôn không thể đoạn tuyệt. Các khổ như thế đều có nguyên nhân mà các thứ phiền não lớn, nhỏ là căn bản.

Tất cả những của báu đều do sự tìm cầu mà được, nếu không có nhân trước thời không thể tìm kiếm và giả sử có tìm kiếm đi chăng nữa thì cũng không đạt được.

Này Thiện Nam, do vì nghĩa ấy, nên tất cả phiền não, tâm theo đuổi tìm kiếm là gốc, nếu diệt được tâm giong ruổi ấy đi thời vô lượng phiền não kia đều dứt hết.

Song, nay thân này là chỗ nương tựa cho các khổ, những người có trí nên sinh tâm chán bỏ!

Do đó, Đức Phật Ca Diếp đời quá khứ, vì các loài cầm thú mà nói bài kệ:

Thân này là gốc khổ

Khổ khác là cành, lá

Nếu đoạn được gốc khổ

Các khổ đều trừ diệt.

Nghiệp xưa của các ngươi

Tạo tội, tâm chẳng hối

Thọ thân tướng xấu xí

Chịu khổ não đủ loại.

Nếu khởi tâm ân trọng

Một niệm cầu sám hối

Như lửa đốt núi đầm

Các tội đều tiêu diệt.

Thân này khổ, bất tịnh

Vô ngã và vô thường

Các ngươi đều phải nên

Thực tâm sinh chán, bỏ.

Lúc đó, vô lượng cầm thú nghe bài kệ ấy rồi, trong nhất niệm, tâm chí thành sám hối, liền bỏ được nẻo xấu ác sinh lên Cõi Trời thứ tư trong Dục Giới phụng sự vị Bồ Tát nhất sinh bổ xứ, nghe pháp bất thoái cứu cánh Niết Bàn.

Này thiện nam, do nhân duyên ấy, nay thân khổ này cũng như nhà cửa, tất cả phiền não tức là chủ nhà. Thế nên, các thiện nam có lòng tin thanh tịnh, phát tâm bồ đề, xuất gia nhập đạo, quyết được giải thoát tất cả mọi thứ khổ và đều sẽ thành tựu đạo quả Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.

Khi ấy, Đức Như Lai nói lại ý nghĩa trên bằng lời kệ:

Bồ Tát xuất gia thường quán sát

Nhà cửa nơi sinh các phiền não.

Như có một người dựng nhà cửa

Trang hoàng bằng mọi thứ ngọc báu

Tự nghĩ tráng lệ không đâu bằng

Không thuộc người khác, chỉ riêng ta,

Thợ khéo sửa sang đẹp lạ lùng

Nhà cửa trên đời không đâu sánh

Phân biệt như thế sinh chấp trước

Lấy ngã, ngã sở làm căn bản

Tám vạn bốn ngàn các phiền não

Đầy khắp nhà cửa sinh tai họa,

Tất cả nam, nữ ở trên đời

Sáu thân quyến thuộc đều đầy đủ

Do nhân duyên ấy sinh mọi khổ

Tức là: sinh, lão và bệnh, tử.

Lo buồn, khổ não, thường theo đuổi

Như bóng theo hình không hề rời

Tạo nhân các khổ, tham dục sinh

Nếu dứt tham cầu, diệt hết khổ.

Thân này thường là gốc mọi khổ

Siêng tu yếm xả, hướng bồ đề

Thân tâm ba cõi như nhà cửa

Chủ nhà: Phiền não ở tại trong

Các ông nên phát tâm bồ đề

Lìa bỏ phàm phu ra ba cõi.

Lại nữa thiện nam, Bồ Tát xuất gia thường quán sát hàng tại gia cũng như trong một nước lớn, có ông Trưởng Giả gia sản giàu sang, của báu vô lượng, trong nhiều kiếp, nhân duyên cha con nối tiếp nhau không dứt và chuyên tu các hạnh lành, nến được tiếng khen đồn xa.

Những của báu hiện có của ông Trưởng Giả ấy được chia làm bốn phần: Một phần của báu thường sinh lợi tức để làm tăng trưởng gia nghiệp, một phần của báu để cung cấp vào sự cần dùng đầy đủ hàng ngày.

Một phần của báu nhằm giúp đỡ những người cô độc để tu nhân tích đức, một phần của báu để cứu giúp thân thuộc và khách lui tới. Bốn phần như thế chưa từng có lúc nào ngừng dứt, cha con cứ nối tiếp nhau phát huy gia nghiệp ở đời.

Nhưng về sau có một người con ngu si, tệ ác, quá tham mê năm thứ dục lạc, làm những việc phóng túng bừa bãi, trái lời dạy của cha mẹ và không y theo bốn sự nghiệp trên. Mà nào dựng lên các nhà cửa, lầu quán bảy tầng hơn hẳn lối xây cất thông thường, trang hoàng bằng mọi thứ châu báu, đất lát lưu ly, cửa sổ bằng ngọc báu, ánh sáng lồng nhau.

Nào đầu rồng, hình cá thảy đều đủ cả, ngày đêm tiếng nhạc dập dìu liên miên không dứt, thụ hưởng năm dục lạc như Cõi Trời Đao Lợi nên bị quỷ thần hiềm ghét, người, Trời tránh xa. Một hôm, bỗng dưng nhà hàng xóm bốc lửa, lửa dữ bừng bừng, theo gió lan tràn, đốt cháy hết cả kho tàng và các lâu đài.

Lúc đó, con ông Trưởng Giả trông thấy lửa dữ như thế, khởi tâm giận bực, vội bắt vợ con, tôi trai, tớ gái và họ hàng vào cả trong ngôi nhà hai tầng, đóng kín cửa lầu gác lại. Không ngờ do sự ngu si ấy, khiến bao người kia nhất thời đều chết cả.

Phàm phu tại gia cũng như thế. Người ngu ở đời ví như con ông Trưởng Giả, còn Chư Phật, Như Lai ví như ông Trưởng Giả. Không thuận theo lời Phật dạy, tạo các nghiệp ác, phải đọa vào ba đường dữ, chịu nhiều khổ não.

Do nhân duyên ấy, Bồ Tát xuất gia thường xem hàng tại gia như con ông Trưởng Giả không vâng lời cha mẹ, bị lửa đốt cháy, vợ con đều chết. Này các Thiện Nam, nên sinh tâm chán, bỏ những sự an vui nơi thế gian, Trời, Người, dốc tu hạnh thanh tịnh sẽ chứng Bồ Đề.

Khi ấy, Đức Như Lai nói lại ý nghĩa trên bằng lời Kệ:

Bồ Tát xuất gia quán tại gia

Ví như Trưởng Giả sinh con ngu

Nhà ông giàu có nhiều của báu

Nối tiếp lâu đời không thiếu chi.

Gia nghiệp đời trước truyền con cháu

Tất cả của cải chia bốn phần

Thường tu thắng hạnh không lỗi ác

Tiếng khen lan khắp các Quốc Độ.

Vàng, bạc, ngọc báu số vô biên

Lợi tức xuất nhập khắp nước ngoài

Từ, bi, hỷ, xả tâm không chán

Cứu giúp cô bần thường chẳng dứt.

Rốt sau Trưởng Giả sinh một con

Ngu si, bất hiếu, không trí tuệ

Tuổi tác đã già, gân sức suy

Gia tài trong, ngoài đều giao con.

Con trái mạng cha làm bừa bãi

Không nối bốn nghiệp nhà sa sút

Cất lầu bảy tầng bằng châu báu

Dùng lưu ly biếc làm cửa sổ,

Đàn địch hát xướng luôn không dứt

Thường lấy bất thiện làm thầy tâm

Hưởng năm dục lạc như Thiên Cung

Tất cả Long Thần đều xa tránh.

Nhà bên bỗng dưng hỏa tai dấy

Lửa dữ theo gió khó cấm được

Kho tàng, của báu và vợ con

Nhà cửa, tầng lầu đều cháy hết.

Tích ác, tai ương đến diệt thân

Vợ con, quyến thuộc đồng chết cả.

Tam thế Chư Phật như Trưởng Giả

Tất cả phàm phu là ngu tử

Không tu chánh đạo dấy tâm tà

Mạng chung đọa nơi các nẻo ác

Nhiều kiếp riêng chịu khổ đốt cháy

Lần lữa như thế không kỳ hết.

Phật Tử tại gia, ông nên biết

Không tham vui đời, siêng tu chứng

Chán đời, xuất gia tu phạm hạnh

Núi rừng vắng lặng bỏ mọi duyên.

Vì trả bốn ân tu thắng đức

Làm ngôi Pháp Vương trong ba cõi

Độ sinh đến hết thuở vị lai

Làm bạn không mời, thường thuyết pháp.

Ngăn hẳn dòng ái đến bờ kia

Trụ nơi thành Niết Bàn thanh tịnh.

Lại nữa Thiện Nam, Bồ Tát xuất gia quán tất cả nhà cửa của thế gian cũng như mộng lớn. Ví như ông Trưởng Giả có một Đồng Nữ mới mười lăm tuổi, dung nhan đoan chánh, sinh đẹp lạ lùng. Một hôm, cha mẹ ở trên lầu ba tầng, đem con gái yêu của mình lên, cùng hưởng xem những sự vui thích.

Đêm, mẹ con cùng ngủ chung trên một giường quý và đang yên giấc. Trong khi ngủ, Đồng Nữ chiêm bao thấy cha mẹ cho về nhà chồng. Vợ chồng lấy nhau trải qua nhiều năm, sinh được một người con dung mạo tươi sáng, xinh xắn vô cùng lại có tướng thông minh trí tuệ. Hàng ngày nhờ ân nuôi nấng, dần dần đứa con ấy biết đi.

Một hôm, trên lầu cao, không may nó trược chân từ trên cao rơi xuống, rơi chưa đến đất, bỗng dưng có một con hổ đói đứng đỡ lấy ăn thịt. Đồng Nữ thấy thế, kinh sợ quá, cất tiếng gào khóc, liền tỉnh mộng.

Bấy giờ, cha mẹ hỏi con: Do nhân duyên gì, bỗng dưng con kinh sợ vậy?

Người con gái thẹn không chịu nói. Người mẹ ân cần hỏi gạn mãi, người con gái mới nói thầm với mẹ về việc chiêm bao như trên.

Này Thiện Nam, thế gian là nhà cửa sinh tử hữu vi, nên phải ở mãi trong luân hồi, nghĩa là chưa được ở vào phận vị chân giác mà thường phải ở trong nhà chiêm bao, sinh, lão, bệnh, tử nơi ba cõi, như Đồng Nữ kia trong chiêm bao, hư vọng phân biệt cũng thế.

Quỷ sứ nơi Diễm Ma bỗng dưng đến, như hổ đói trong hư không đỡ đứa bé kia mà ăn. Tất cả chúng sinh trong từng niệm, niệm luôn bị các nỗi khổ về vô thường, lão, bệnh, tử cũng như thế.

Ai là người có trí tuệ lại yêu thích thân này!

Vì nhân duyên ấy, quán sát trong sinh tử như giấc mộng đêm dài, mà phát tâm Bồ Đề, chán bỏ thế gian, dốc sức tu tập sẽ đạt được diệu quả thường trụ của Như Lai.

Khi ấy, Đức Thế Tôn nói lại nghĩa trên bằng lời kệ:

Phật Tử dốc cầu đạo vô thượng

Nên quán nhà cửa như trong mộng

Ví như đại Trưởng Giả giàu sang

Có một Đồng Nữ đoan nghiêm lạ.

Cô theo cha mẹ lên lầu cao

Đi theo xem coi rất vui vẻ.

Cô ngủ trong lầu, cô chiêm bao:

Rõ ràng mơ thấy đi lấy chồng.

Sau ở nhà chồng sinh một con

Tâm mẹ thương xót nhớ mến con

Con trên lầu đài ham vui chơi

Từ cao rơi xuống ngay miệng hổ.

Cô khóc thất thanh liền tỉnh mộng

Mới biết mộng tưởng vốn không thực.

Vô minh ám chướng như đêm dài

Chưa thành Chánh Giác như trong mộng

Sinh tử thế gian thường chẳng thực

Vọng tưởng phân biệt cũng như thế.

Chỉ có bốn trí lớn tròn sáng

Phá tối tăm là chân Diệu Giác.

Vô thường niệm niệm như hổ đói

Hữu vi vô giả khó dừng lâu

Chim ngủ sớm mai đều bay tản

Mạng hết biệt lỵ cũng thế thôi

Theo nghiệp thọ sinh chịu các báo

Ân tình cha mẹ không biết nhau.

Thương thay, thân sinh tử phàm phu

Luân chuyển ba đường chịu khổ mãi

Nếu biết thiện, ác theo nghiệp cảm

Cần nên sám hối cho tiêu diệt.

Tất cả quả vui của Trời, người

Thẹn hổ chánh kiến chính là nhân

Nên phát tâm bồ đề kiên cố

Mặc áo tinh tấn siêng tu học!

Lại nữa Thiện Nam, Bồ Tát xuất gia quán sát nhà cửa như cửa biển Tẫn Mã tuôn ra lửa dữ, thu hút, lan tỏa cả bốn ngòi ở bốn bên, cho đến trăm sông và mọi dòng đều bị lửa cháy hết. Ví như xưa kia trong nước La đà có một vị Bồ Tát tên là Diệu Đắc Bỉ Ngạn.

Bồ Tát ấy có tâm từ bi, thường dốc sức đem lại lợi ích cho chúng sinh, nên có những lái buôn khi vào biển tìm của báu luôn mời Bồ Tát ấy đồng đi trên thuyền buồm và đều đi được tới bến có châu báu, vượt qua mọi hiểm nạn, không có sự gì trở ngại, đến được bờ an vui. Về sau, khi Bồ Tát đã trăm tuổi, dần dần già yếu, đứng, ngồi phải có người nâng dắt, sức lực không thể đi biển được như trước nữa.

Khi ấy, có một thương chủ tới nơi Bồ Tát lễ bái cúng dường và thưa với Bồ Tát: Tôi muốn vào biển tìm các ngọc báu mong được đại phú quý, để thoát khỏi bần cùng mãi mãi.

Nay thỉnh Bồ Tát cùng đi với tôi!

Bồ Tát bảo thương chủ: Nay tôi già cả suy kém, gân cốt, sức lực yếu ớt, không thể vào biển được.

Thương chủ lại nói: Kính xin Đại Sĩ đừng bỏ tâm từ bi, thương xót và nhận lời thỉnh của tôi. Đại Sĩ chỉ an tọa trong thuyền buồm của tôi, không phải làm gì cả, đó là sở nguyện của tôi. Bồ Tát bèn nhận lời thỉnh của người lái buôn. Bồ Tát ở trong thuyền lớn chạy vào biển cả, hướng về phía Đông Nam để tới nơi có ngọc báu. Trong khi đi, thuyền gặp phải gió Bắc trôi giạt vào biển phía Nam.

Gió dữ thổi ngày đêm vun vút không ngừng, thuyền trôi suốt trong bảy ngày, tới một nơi trông thấy nước biển cả biến thành màu sắc vàng như là vàng nung chảy.

Những người lái buôn thấy thế bạch Bồ Tát: Bạch Bồ Tát, do nhân duyên gì mà ở đây có dáng nước biến ra sắc vàng như thế?

Bồ Tát bảo: Các ông nên biết, chúng ta đã vào biển hoàng kim lớn, vì có vô lượng, vô biên những thứ vàng ròng tía sẫm đầy dẫy nơi biển cả, ánh sáng của vàng báu ấy giao hòa lẫn nhau nên mới có dáng như thế. Các ông đã vượt quá đường thẳng mà giạt vào trong biển này, thời đều phải tự mình dốc cầu, tạo mọi phương tiện để trở về phương Bắc.

Qua vài ngày, thấy nước biển cả biến thành sắc trắng như ngọc tuyết, Bồ Tát bảo: Các ông nên biết, chúng ta nay đã vào biển châu báu lớn, có bạch ngọc trân châu đầy dẫy trong biển, ánh sáng của thứ báu ấy chiếu vào sắc nước, nên có dáng như thế. Các ông nên dốc sức tạo ra mọi phương tiện để trở về phương Bắc. Qua vài ngày, nước trong biển cả biến thành sắc xanh như nước lưu ly xanh.

Bồ Tát bảo: Tôi và các ông đã vào trong biển pha lê xanh, vì có vô lượng vô biên ngọc báu pha lê xanh đầy dẫy nơi biển cả, sắc pha lê giao hòa với ánh sáng nên thấy toàn màu xanh như thế. Qua vài ngày, nước biển cả lại biến thành sắc hồng như máu hiện ra.

Bồ Tát bảo: Tôi và các ông đã vào biển pha lê hồng, vì có vô lượng vô biên các thứ ngọc báu pha lê hồng đầy dẫy nơi biển cả, sắc ngọc báu đỏ hồng, giao hòa với ánh sáng nên mới có hiện tượng như vậy. Qua vài ngày nữa, nước biển liền biến thành sắc đen như nước mực và xa nghe tiếng lửa dữ bùng cháy, nổ ran, như lửa lớn đốt cháy rừng trúc khô.

Lửa cháy bừng bừng rất đáng sợ hãi, dáng dấp như thế, chưa từng trông thấy, nghe thấy bao giờ. Lại thấy lửa lớn bốc cháy ở phương Nam, như chòm núi cao hơn trăm trượng, thế lửa bay bốc lên không, lúc hợp, lúc tan, ánh sáng như chớp giật, những hình dáng như thế chưa hề gặp phải thật hết sức lạ lùng.

Mọi người thấy vậy đều bảo nhau: Thân mạng chúng ta thực khó đảm bảo được.

Lúc đó Bồ Tát bảo mọi người: Các ông hôm nay rất đáng sợ hãi!

Sao vậy?

Chúng ta đã vào nơi cửa biển Tẫn Mã, bốn vùng biển rộng cùng với các dòng sông lớn nhỏ trong bốn cõi thiên hạ chảy vào cửa bên phía Bắc, thảy đều bị chết cháy hết.

Sở dĩ thế là sao?

Vì sức mạnh nơi nghiệp tăng thượng của các chúng sinh, nên tự nhiên lửa Trời đốt cháy nước biển. Nếu lửa Trời này không đốt cháy nước biển, thì trong một ngày một đêm tất cả lục địa đều biến thành biển cả, mọi loài chúng sinh hiện có thảy đều trôi hết.

Song, nay chúng ta gặp phải gió dữ lớn, trôi dạt vào cửa biển Tẫn Mã này thì thân mạng mọi người ở đây không còn kéo dài bao lâu nữa.

Khi ấy, có hơn ngàn người ở trong thuyền buồm, đồng thời cất tiếng thảm thương gào khóc, hoặc tự nhổ tóc, hoặc tự vật mình nói lên lời này:

Nay chúng ta vì cầu ngọc báu, vào biển cả gặp phải hiểm nạn này.

Thương thay! Khổ thay! Biết dùng phương tiện gì để thoát khỏi được nạn này.

Lúc đó, cả ngàn người đều chí thành quy mạng:

Hoặc kêu mẹ hiền, hoặc gọi cha từ, hoặc kêu Phạm Thiên, hoặc gọi Ma Hê Thủ La Thiên Vương, hoặc cầu Đại lực Na La Diên Thiên.

Hoặc có người quy mạng Bồ Tát Đắc Ngạn, kính lễ Bồ Tát mà bạch: Kính xin Bồ Tát cứu vớt bọn chúng tôi!

Bấy giờ, Bồ Tát vì muốn mọi người khỏi sự sợ hãi, liền nói bài kệ:

Đại trượng phu tối thượng trên đời

Tuy vào cửa chết không sinh sợ.

Người nếu lo buồn mất trí tuệ

Cần nên nhất tâm bày phương tiện.

Nếu được cửa phương tiện khéo léo

Thoát khỏi tám nạn lên bờ kia

Thế nên yên tâm đừng lo sợ

Cần nên khẩn niệm Đại Từ Tôn.

Bồ Tát nói xong bài kệ ấy, liền đốt các hương tốt lễ bái, cúng dường Chư Phật mười phương, rồi phát nguyện rằng:

Nam Mô Thập Phương Chư Phật!

Nam Mô Thập Phương Chư Phật!

Chư Đại Bồ Tát Ma Ha Tát chúng!

Tất cả Hiền Thánh Tứ Quả, Tứ Hướng.

Bậc có Thiên nhãn, bậc có Thiên Nhĩ, trí tha tâm, bậc chúng tự tại!

Tôi vì chúng sinh vận dụng tâm đại bi, giũ bỏ thân mạng, cứu giúp các khổ nạn. Nay tôi có chút thiện căn, là thọ trì giới không nói dối của Như Lai trong vô lượng kiếp, tôi chưa từng thiếu phạm bao giờ.

Nếu trong một kiếp nào tôi có nói dối, thời nay gió dữ này chuyển mạnh hơn lên. Mà nếu giới đức nơi tôi như thế, thực sự chẳng phải hư vọng, thời nguyện đem nghiệp lành ấy, hồi hướng ban bố cho tất cả, tôi cùng chúng sinh sẽ thành Phật Đạo và nếu thực không hư, nguyện cho gió dữ, xấu này tức thời ngừng bặt, luồng gió như ý tùy niệm thổi tới.

Thân các chúng sinh tức là thân tôi, chúng sinh cùng tôi bình đẳng không sai khác!

Khi Đại Bồ Tát ấy phát nguyện đồng thể đại bi vô ngại rồi, chừng khoảng một niệm, gió dữ liền ngừng, tức thì gặp được gió thuận, giải thoát mọi nạn và đến được nơi chốn có vật báu, thu được nhiều ngọc báu.

Bấy giờ, Bồ Tát bảo với các người lái buôn ấy: Ngọc báu như thế rất là khó gặp được, đời trước các ông đã làm nhiều sự bố thí nên nay mới gặp được các ngọc báu quý như thế. Nhưng trước kia khi tu về bố thí, tâm các ông còn có sự tiếc lẫn, vì nhân duyên ấy, nên nay các ông gặp phải gió dữ.

Thương thân các ông tìm được ngọc báu, các ông nên biết hạn lượng, không nên lấy nhiều, vì nếu tâm tham, buông thả thì sau bị nạn lớn.

Các ông nên biết: Trong mọi thứ châu báu thì tánh mạng là hơn hết. Nếu mạng mình còn thì đó là vật báu vô giá. Các lái buôn nhờ được Bồ Tát dạy bảo nên sinh tâm biết đủ, không dám lấy nhiều. Mọi người thoát khỏi tai nạn, được nhiều ngọc báu, xa lìa sự nghèo cùng và đến được bờ kia.

Các Thiện Nam, Bồ Tát xuất gia cũng lại như thế, thân cận Chư Phật, bạn lành là hàng thiện tri thức, như những người lái buôn kia được gặp Bồ Tát.

Khỏi hẳn sinh tử đến được bờ giác, cũng như thương chủ đạt được phú quý lớn lao. Nhà cửa hữu vi hiện có của thế gian cũng như cửa biển Tẫn Mã đốt cháy mọi dòng sông. Bồ Tát xuất gia cũng thế, quán sát kỹ lưỡng những lỗi lầm sai trái của hàng tại gia.

Thiện Nam các ông, không nhiễm năm thứ dục lạc thế gian, chán bỏ sinh tử khổ nạn trong ba cõi, tất được vào thành lớn, gồm đủ mọi an vui mát mẻ.

Khi ấy, Đức Như Lai nói lại ý nghĩa trên bằng lời kệ:

Bồ Tát xuất gia quán nhà cửa

Như biển Tẫn Mã đốt mọi dòng.

Ví như xưa kia nước La Đà

Có một Bồ Tát tên Đắc Ngạn

Đã trí, phước lớn, phương tiện khéo

Từ bi dứt duyên, nhiếp hữu tình.

Xin Bồ Tát ấy đi trên thuyền

Lái buôn được ngọc lên bờ kia.

Song, Bồ Tát tuổi già sức yếu

Không ưa lợi tha, ham thiền tịch.

Có một thương chủ thỉnh Bồ Tát

Muốn vào biển cả tìm châu báu

Kính xin Bồ Tát nhận lời thỉnh

Cho mình giàu có không thiếu thốn.

Khi ấy Bồ Tát vận đại bi

Liền nhận lời thỉnh đi trên thuyền.

Khi trương buồm lớn gặp gió thuận

Thẳng hướng Đông Nam tới chốn báu

Bỗng gặp gió dữ thổi thuyền buồm

Giạt vào Nam Hải lầm chỗ đến.

Trải qua bảy ngày nước biển cả

Thảy đều biến sắc thành vàng ròng

Vàng ròng tía bóng đầy trong biển

Ánh ngọc báu hiện sắc chân kim.

Lại qua vài ngày nước biển cả

Biến thành sắc trắng như ngọc tuyết

Trân châu trân bảo đầy khắp bể

Cho nên nước biển thành sắc trắng.

Lại qua vài ngày nước biển cả

Biến thành xanh biếc như lưu ly

Ngọc pha lê xanh đầy biển cả

Cho nên nước thành sắc xanh biếc.

Lại qua vài ngày nước biển cả

Thảy đều biến thành sắc đỏ hồng

Ngọc pha lê đỏ đầy trong bể

Nên biến sắc nước đồng như nó.

Lại qua vài ngày nước biển cả

Biến thành sắc đen như nước mực

Như thế lửa Trời đốt cháy hết

Nước biển tất cả như sắc mực.

Biển ấy gọi là cửa Tẫn Mã

Thu hút bốn biển và mọi dòng

Tất cả thuyền buồm nếu đi qua

Những người đến đấy, phần nhiều chết.

Lửa Trời bừng bừng như núi chất

Tiếng nổ rền vang như sấm động

Mọi người xa thấy tâm kinh sợ

Kêu gào, đâm ngực bạch Đại Sư.

Khi ấy Bồ Tát khởi từ bi

Không tiếc thân mạng, rủ cứu hộ.

Gió dữ liền ngừng, gió thuận khởi

Qua nơi hiểm nạn đến chốn báu

Đều được ngọc quý tới bờ yên

Khỏi hẳn bần cùng hưởng an lạc.

Bồ Tát xuất gia cũng như thế

Thân cận Chư Phật như thương chủ

Thoát hẳn nhà lửa lên Chân Giác

Cũng như thương nhân về bản xứ.

Nhà cửa sở hữu của thế gian

Như cửa biển lớn: Tẫn Mã kia.

Xuất gia thường chán về tại gia

Không nhiễm thế gian rời năm dục

Ưa chốn không nhàn, tâm bất động

Khéo suốt lý chân diệu rộng sâu.

Hoặc ở trong làng xóm nhân gian

Như ong hái hoa không chút tổn

Trong bốn uy nghi thường lợi vật

Không tham vui đời và tiếng khen.

Miệng thường thốt giọng, lời dịu dàng

Ác ngôn thô bỉ không hề khởi

Biết ân, trả ân tu nghiệp thiện

Mình, người đều được nhập chân thường.

Bấy giờ, Trưởng Giả Trí Quang và các Trưởng Giả khác tất cả một vạn người, tuy khác miệng nhưng cùng một giọng bạch Phật: Lành thay, Đức Thế Tôn! Hiếm có thay, Đấng Thiện Thệ! Đúng như thế! Đúng như thế!

Thế Tôn nói ra chánh pháp vi diệu đệ nhất, phương tiện khéo léo, làm lợi ích cho chúng sinh.

Như Phật nói, chúng con hôm nay đều biết: Nhà cửa thế gian cũng như lao ngục, tất cả pháp xấu, ác đã từ nhà cửa ấy sinh ra. Người xuất gia thực có vô lượng vô biên lợi lạc thù thắng vì thế chúng con rất thích xuất gia, cho đời hiện tại và vị lai luôn được hưởng những pháp lạc.

Đức Thế Tôn bảo các Trưởng Giả: Quý hóa thay! Quý hóa thay! Các ông phát tâm muốn xuất gia!

Nếu những thiện nam, thiện nữ phát tâm Vô Thượng, Chánh Đẳng Chánh Giác, xuất gia tu đạo một ngày một đêm, thì hai trăm vạn kiếp không phải đọa vào nẻo ác. Thường được sinh ở nơi chốn lành, được hưởng sự an vui thắng diệu, gặp được các bậc thiện tri thức, vĩnh viễn tâm không thoái chuyển, được gặp Chư Phật, được thọ ký quả Bồ Đề, ngồi trên Tòa Kim Cang, Thành Đạo Chánh Giác.

Song, người xuất gia trì giới rất khó, người trì giới chính là bậc xuất gia chân chánh đúng nghĩa.

Lúc đó, các Trưởng Giả bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn, chúng con xin giữ giới, tu các hạnh thanh tịnh, nguyện cho chúng con chóng ra khỏi bể khổ sinh tử, nguyện cho chúng con chóng vào được cung báu thường lạc, nguyện cho chúng con rộng độ tất cả chúng sinh, chóng chứng đắc Trí vô sinh.

Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo Bồ Tát Di Lặc và Văn Thù Sư Lợi: Các ông Trưởng Giả này Ta phó chúc cho các ông, các ông nên khuyến khích họ xuất gia và thọ trì tịnh giới. Liền đó, chín ngàn người đối trước Bồ Tát Di Lặc xin xuất gia tu đạo, thọ trì giới luật của Phật. Bảy ngàn người đối trước Bồ Tát Văn Thù xuất gia tu đạo, thọ giới cấm của Phật.

Những người ấy được xuất gia rồi, thành tựu được pháp nhẫn, hội nhập vào cảnh giới bí mật của Như Lai, không còn bị thoái chuyển. Vô lượng vạn người phát tâm bồ đề đến ngôi bất thoái chuyển. Vô số người, Trời xa lìa mọi bụi bặm cấu uế, đạt được pháp nhãn thanh tịnh.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần