Phật Thuyết Kinh đại Thừa Bản Sinh Tâm địa Quán - Phẩm Hai - Phẩm Báo ân - Phần Hai
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Bát Nhã, Đời Đường
PHẬT THUYẾT KINH ĐẠI THỪA
BẢN SINH TÂM ĐỊA QUÁN
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Bát Nhã, Đời Đường
PHẨM HAI
PHẨM BÁO ÂN
PHẦN HAI
Bấy giờ, về phía Đông Bắc Đại Thành Vương Xá cách tám mươi do tuần có một nước nhỏ tên là Tăng Trưởng Phúc. Trong nước ấy có một ông Trưởng Giả tên là Trí Quang, tuổi nhiều, già yếu, chỉ có một con, mà người con ấy tánh tình ác nghịch, không thuận cha mẹ, cha mẹ răn dạy gì đều không theo lời.
Ông Trưởng Giả xa nghe Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Như Lai ở trong núi Kỳ Xà Quật, Thành Vương Xá, vì vô lượng chúng sinh trong cõi đời xấu ác, nhơ đục, nêu giảng về Pháp Báo Ân của Đại Thừa.
Khi ấy, cả cha mẹ và con cùng mọi người quyến thuộc của ông vì muốn nghe pháp, nên đem các đồ cúng đến nơi Phật, cung kính cúng dường Phật.
Cúng dường rồi ông Trưởng Giả liền bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn, con có một người con, tánh nó ác tệ quá, không chịu nghe lời khuyên răn của cha mẹ. Nay con nghe thấy Phật giảng dạy về việc báo đáp bốn ân, con vì muốn nghe pháp nên lại nơi Phật, kính xin Đức Thế Tôn vì chúng con cùng các người trong quyến thuộc chỉ dạy rõ về nghĩa lý sâu xa, nhiệm mầu của bốn ân, khiến đứa con tệ ác của con sinh tâm hiếu thuận, đời nay, đời sau sẽ được sự an lạc.
Đức Phật bảo ông Trí Quang: Quý hóa thay! Quý hóa thay! Ông vì pháp nên đến chỗ Ta, cúng dường cung kính và muốn nghe pháp ấy, vậy các ông nên nghe cho kỹ và nhớ nghĩ cho khéo.
Nếu có các thiện nam, thiện nữ nào phát tâm Bồ Đề, muốn nghe các pháp quan trọng, khi cất chân, đặt chân xuống đất, tùy theo số lượng bụi nhỏ của đường đất đi xa hay gần mà do nhân duyên ấy. Người đó cảm được Kim Luân của Chuyển Luân Thánh Vương, khi phước báo của Thánh Vương hết, được làm Thiên Vương trong Dục Giới.
Khi phước báo của Thiên Vương trong Dục Giới hết, được làm Phạm Thiên Vương, được thấy Phật, nghe Pháp và chóng chứng được đạo quả vi diệu.
Đại Trưởng Giả cùng những người khác đi với ông vì cầu pháp nên đến chỗ ta, tính ra như thế là phải đi qua tám mươi do tuần Đại Địa vi trần, mỗi một số vi trần ấy sẽ tạo được những cảm ứng theo những quả báo về Trời, người, Luân Vương. Và được nghe pháp rồi, đời sau sẽ chứng đạo quả Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.
Tuy trước ta đã nói về nghĩa lý sâu xa, nhiệm mầu của bốn ân, nay vì các ông, Ta nêu lại nghĩa ấy, bằng lời kệ sau này:
Tối thắng Pháp Vương, Đại Thánh chủ
Tất cả Trời, người chẳng thể sánh
Trang nghiêm thân bằng mọi tướng tốt
Bể trí như hư không vô lượng.
Hạnh lợi tự, tha đều viên mãn
Tiếng khen đồn khắp trong các cõi
Dứt hẳn phiền não cùng tập khí
Khéo trì mật hạnh, giữ mọi căn.
Một trăm bốn mươi đức bất cộng
Bể phước rộng lớn đều tràn trề
Chánh định, thần thông đầy đủ cả
Thường an vui tám cung tự tại.
Trời, người, ngoại đạo trong mười phương
Không ai năng nan như Điều Ngự
Miệng vàng nói biện tài vô ngại
Tuy không ai hỏi mà tự nói.
Ví như thủy triều không sái thời
Cũng như trống Trời hợp lòng Trời
Tự tại như thế chỉ có Phật
Ngữ thông Tiên, Ma, Phạm chẳng được.
Trải vô số kiếp tu hạnh nguyện
Chứng được đại thần thông như thế
Trong cõi đại tịch Ta nhập định
Quán sát các căn và bệnh, thuốc.
Tự ra thiền định mà tán thán:
Ba đời Phật Pháp tâm địa môn
Các vị Trưởng Giả liền thoái tâm
Chỉ ưa hạnh Nhị Thừa tự lợi.
Ta mở pháp đại trí phương tiện
Dấn vào cửa giải thoát tam không
Diệu lý Như Lai chẳng thể lường
Chỉ Phật biết được chân bí mật.
Thanh Văn lợi can và Độc Giác
Bồ Tát cần cầu ngôi bất thoái
Mười hai kiếp số cùng so lường
Không có ai biết được phần nhỏ.
Giả sử phàm, Thánh Trí mười phương
Trao cho một người làm bậc trí
Bậc trí như thế giống rừng Trúc
Không thể so lường được phần nhỏ.
Thế gian phàm phu không mắt tuệ
Mê nơi ân đức mất diệu quả
Chúng sinh trong đời năm ác trược
Không hiểu ân sâu thường trái đức.
Ta vì khai thị về bốn ân
Khiến vào chánh kiến Bồ Đề đạo
Cha lành mẹ hiền, ân trưởng dưỡng
Tất cả trai, gái đều yên vui.
Ân cha lành cao hơn núi lớn
Ân mẹ hiền sâu như biển cả
Nếu ta ở đời trong một kiếp
Nói ân mẹ hiền không hết được.
Ta nay nói qua một phần nhỏ
Như ruồi, muỗi uống nước biển sâu:
Giả sử có người vì phước đức
Cúng dường Bà La Môn tịnh hạnh
Vị ngũ thông Thần Tiên tự tại
Sư trưởng đại trí cùng bạn lành
Nhà cửa trang hoàng toàn bảy báu
Phòng ốc bằng gỗ hương Chiên Đàn
Đồ nằm trăm báu bày trải khắp
Mỹ vị thế gian như Cam Lộ,
Cùng các thuốc men chữa muôn bệnh
Vật dụng đều chứa đầy vàng bạc.
Cúng dường như thế ngày ba thời
Cho đến đủ số một trăm kiếp
Không bằng một niệm tỏ chút phần
Cứng dường mẹ hiền ruộng ân lớn
Phước đức vô biên không thể lường
Tính toán, thí dụ không sánh kịp.
Mẹ hiền thế gian có mang con
Mười tháng mang thai chịu khổ nhiều
Tình không tham đắm năm dục lạc
Tùy thời ăn uống cũng đồng thế
Ngày đêm thường mang lòng thương xót
Đi, đứng, ngồi, nằm chịu mọi khổ.
Ngay lúc sinh con khỏi bào thai
Như góp mũi nhọn rạch thân thể
Mê cảm Đông, Tây không phân biệt
Khắp mình đau đớn không chịu nổi
Hoặc nhân nạn ấy mà mất mạng
Họ hàng quyến thuộc đều buồn bã
Mọi khổ như thế đều vì con
Lo, buồn thống thiết nói sao cùng.
Nếu được mạnh khỏe thân yên vui
Như nghèo được ngọc mừng khôn tả
Đoái nhìn mặt con không biết chán
Tâm thương nhớ con không chút rời.
Ân tình mẫu tử thường như thế
Ra vào không rời con trước ngực
Sữa mẹ như nước suối Cam Lộ
Nuôi dưỡng kịp thời không lúc cạn.
Ân nơi từ niệm thực khó ví
Công đức nuôi nấng cũng khó lường
Ở đời đại địa gọi là nặng
Ân mẹ hiền nặng hơn đất kia
Trên đời Tu Di gọi là cao
Ân mẹ hiền cao hơn núi đó,
Ở đời nhanh nhất có gió lốc
Nhưng lòng mẹ hiền còn trội hơn.
Nếu có chúng sinh chẳng hiếu thuận
Khiến mẹ tạm thời khởi tâm hận
Thốt lời oán niệm chỉ phần nhỏ
Con theo lời ấy bị khổ nạn.
Chư Phật cùng các thần Kim Cang
Bí Pháp Thần Tiên không cứu được.
Nếu có trai gái nghe mẹ dạy
Vâng làm, nhan sắc không hề trái
Tất cả tai nạn đều tiêu trừ
Chư Thiên độ hộ thường an lạc.
Nếu hay thừa thuận theo mẹ hiền
Những nam, nữ ấy khác kẻ phàm
Bồ Tát lòng từ hóa nhân gian
Thị hiện báo ân mọi phương tiện.
Nếu có thiện nam và thiện nữ
Vì báo ân mẹ nên hiếu dưỡng.
Cắt thịt, trích huyết thường cung cấp
Như thế đủ số trong một kiếp
Mọi thứ cần tu trong đạo hiếu
Còn chưa báo được ân tạm thời
Mười tháng con ở trong thai mẹ
Thường ngậm cuống vú uống thai huyết
Từ khi là con nít, trẻ thơ
Uống hơn trăm hộc sữa của mẹ
Ăn uống, thuốc thang, y phục đẹp
Con trước, mẹ sau đó lệ thường.
Con nếu ngu si bị người ghét
Mẹ cũng thương nhớ không hề bỏ
Xưa, có người nữ bế con mình
Lội qua Sông Hằng nước chảy mạnh
Sức khó vượt qua vì nước ngập
Mẹ chết cùng con không nỡ bỏ.
Vì sức thiện căn niệm lành ấy
Mạng mất được sinh lên Phạm Thiên
Hưởng vui chánh định nơi Cõi Phạm
Được gặp Như Lai nhận Phật ký.
Thế nên mẹ hiền có mười đức
Tùy hợp nghĩa lợi đặt ra tên:
Một là Đại Địa.
Hai, năng sinh.
Ba là năng chánh.
Bốn, dưỡng dục.
Năm, cho trí tuệ.
Sáu, trang nghiêm.
Bảy là an ổn.
Tám dạy, trao.
Chín là giáo giới.
Mười, cho của.
Ân khác không hơn ân đức mẹ.
Pháp gì ở đời là rất giàu?
Pháp gì ở đời là rất nghèo?
Mẹ còn tại nhà là rất giàu
Mẹ đã khuất bóng là rất nghèo.
Khi mẹ còn, là mặt trời ngọ
Khi mẹ mất, là mặt trời lặn
Khi mẹ còn, thảy đều đầy đủ,
Khi mẹ mất, thảy đều rỗng không.
Tất cả hàng thiện nam ở đời
Ân cha mẹ nặng như gò, núi
Hiếu kính cần phải luôn ở lòng
Biết ân, trả ân là Thánh Đạo.
Không tiếc thân mạng dâng đồ ngon
Chưa từng một niệm thiếu sắc dưỡng
Như khi cha mẹ bỗng mất đi
Dù muốn báo ân thật chẳng kịp.
Phật xưa tu hành vì từ mẫu
Cảm được tướng tốt sắc thân vàng
Tiếng lành vang dội khắp mười phương
Tất cả người, Trời đều đảnh lễ
Nhân và Phi Nhân thảy cung kính
Từ duyên xưa trước báo từ ân.
Ta đã lên Cung Trời Đao Lợi
Ba tháng, vì mẹ nói pháp mầu
Khiến mẹ lãnh hội, quy chánh đạo
Ngộ Nhẫn vô sinh thường không thoái
Như thế đều là báo bi ân
Tuy báo ân sâu vẫn chưa đủ.
Ngài Mục Liên thần thông đệ nhất,
Dứt hết phiền não trong ba cõi
Dùng sức thần thông xem từ mẫu
Thấy đang chịu khổ trong ngạ quỷ.
Mục Liên tự đi trả ân mẹ
Cứu thoát từ thân nơi thọ khổ
Sinh lên các Cõi Trời Tha Hóa
Cùng được an vui nơi Thiên Cung.
Nên biết ân cha mẹ rất sâu
Chư Phật, Thánh Hiền đều báo đức.
Nếu ai chí tâm cúng dường Phật
Hoặc tâm tinh cần tu hiếu dưỡng
Phước hai người ấy không sai khác
Ba đời hưởng báo cũng vô cùng.
Người đời, làm con tạo ác tội
Sa ba ngả ác chịu khổ mãi
Người chưa chứng Thánh, không thần thông
Không thấy luân hồi, khó báo được.
Thương thay người đời không Thánh lực
Không hay cứu gỡ cho mẫu hiền!
Do nhân duyên ấy, ông nên biết
Dốc tu phúc lợi công đức tốt:
Đem ngay thắng đức nơi nam, nữ,
Có đại kim quang soi địa ngục.
Trong hào quang diễn tiếng thâm diệu
Khai ngộ cha mẹ mở tâm ý.
Nhớ thuở xưa kia thường tạo tội
Một niệm tâm hối đều trừ diệt.
Miệng niệm: Nam Mô Tam Thế Phật
Thân khổ nạn, ràng buộc, được thoát
Sinh lên Trời, người, hưởng vui mãi
Thấy Phật, nghe Pháp, sẽ thành Phật.
Hoặc sinh Tịnh Độ tại mười phương
Hoa sen bảy báu là cha mẹ
Hoa nở thấy Phật ngộ vô sinh
Bồ Tát bất thoái là đồng học.
Được sáu thần thông, lực tự tại
Được vào cung bồ đề vi diệu
Bồ Tát đều là các nam, nữ
Nương nguyện lực lớn hóa nhân gian.
Thế là thực báo ân cha mẹ
Các ông, chúng sinh cùng tu học!
Chúng sinh luân hồi sinh sáu nẻo
Cũng như bánh xe không sau, trước
Hoặc là cha mẹ, là trai, gái
Đời đời, kiếp kiếp ân lẫn nhau
Như thấy cha mẹ… không khác chi
Không chứng Thánh Trí, do đâu biết
Tất cả nam tử đều là cha
Tất cả nữ nhân đều là mẹ
Ân đời trước thế chưa trả xong
Lại sinh niệm khác thành oán ghét!
Thường nên báo ân, ích lẫn nhau
Không nên đánh mắng thành hiềm oán
Nếu muốn tu thêm nẻo phước trí
Ngày đêm sáu thời nên phát nguyện:
Nguyện con đời đời vô lượng kiếp
Được Túc trụ trí đại thần thông
Biết được trăm ngàn kiếp quá khứ
Lại nhớ biết nhau là cha mẹ.
Xoay vần sáu cõi, bốn loài sinh
Cho con một niệm đến nơi ấy
Vì nói diệu pháp, lìa nhân khổ
Trong Trời, người, thọ hưởng vui mãi.
Khuyên phát nguyện Bồ Đề kiên cố
Tu hành sáu độ của Bồ Tát
Dứt hẳn hai nhân nơi sinh tử
Chóng chứng Niết Bàn Vô Thượng Đạo.
Mười phương tất cả các Quốc Vương
Chánh Pháp giáo hóa là Thánh chủ
Phước đức Quốc Vương là tối thắng.
Việc làm tự tại gọi là Thiên
Vua Trời Đao Lợi và Trời khác
Thường đem phước lực giúp trị vì
Chư Thiên ủng hộ như con một
Vì thế được gọi là Thiên Tử.
Thế gian cho Vua là cội gốc
Là chỗ nhân dân tất cả nương
Cũng như nhà cửa của thế gian
Cột là cội gốc, dựng nên được.
Vua dùng chánh pháp hóa nhân dân
Giả như Phạm Vương sinh muôn vật
Vua làm phi pháp không chánh lý
Như Diễm Ma Vương diệt thế gian.
Nếu Vua dung nạp kẻ gian tà
Khác nào voi giày xéo ao hoa
Đừng bảo do gặp đời ác, đục
Nên biết thiện, ác do Vua tu
Như Mặt Trời soi sáng thế gian
Quốc Vương dạy đời cũng như thế
Mặt Trời, đêm tuy không chiếu tới
Nhưng khiến chúng sinh được an lạc.
Vua đem phi pháp ra dạy đời
Tất cả nhân dân không tin cậy
Thế gian có những sự sợ hãi
Nhưng nhờ phúc Vua không dấy sinh
Thành ra nhân dân được an lạc
Như thế là phúc Vua soi tới.
Thế gian có những hoa rất đẹp
Nhờ phước Nhà Vua mà nở tỏa,
Thế gian có những rừng, vườn đẹp
Nhờ phúc Nhà Vua đều tươi tốt,
Thế gian có những cây cỏ thuốc
Nhờ phúc Nhà Vua khỏi các bệnh,
Thế gian trăm thứ lúa, hoa màu
Nhờ phúc Nhà Vua đều thành hạt,
Nhân dân trên đời hưởng vui sướng
Nhờ phúc Nhà Vua thường tự nhiên.
Ví như Trưởng Giả có một con
Trí tuệ đoan nghiêm đời không sánh
Cha mẹ yêu mến như con mắt
Ngày đêm thường sinh tâm hộ niệm.
Thánh Vương trong nước cũng như thế
Nhớ mến chúng sinh như con một
Nuôi nấng người già, giúp cô độc
Tâm dù thưởng, phạt nhưng thường một.
Nhân Vương như thế là Thánh chủ
Mọi loài tín ngưỡng như Như Lai
Nhân Vương trị nước không tai biến
Muôn họ kính, chăm thường an ổn.
Vua không đem pháp chánh dạy đời
Bệnh tật lây lan hại chúng sinh
Như thế tất cả Nhân, Phi Nhân
Tội, phúc rõ ràng không che được.
Trong pháp thiện, ác chia bảy phần
Người tạo được năm, Vua được hai
Nhà cửa, ruộng, vườn, rừng đều thế
Thuế má phân chia cũng như vậy.
Chuyển Luân Thánh Vương khi xuất hiện
Chia làm sáu phần Vua được một
Nhân dân khi ấy được năm phần
Nghiệp báo thiện, ác cũng đều thế.
Nếu có Nhân Vương tu chánh kiến
Như pháp dạy đời là Thiên Chủ
Do dựa pháp Trời mà dạy đời
Tỳ Sa Môn Vương thường ủng hộ.
Ba Cõi Trời khác, chúng La Sát
Đều sẽ gìn giữ Thánh Vương Cung.
Thánh Vương ra đời sửa sang nước
Lợi ích chúng sinh thành mười đức:
Một là soi sáng trong Quốc Giới
Hai là trang nghiêm cho Quốc Độ
Ba là thường cho sự yên vui
Bốn là hàng phục các oán địch
Năm là cấm ngăn mọi sợ hãi
Sáu là tập hợp các Thánh Hiền
Bảy là căn bản của mọi pháp
Tám là hộ trì cho thế gian
Chín là thường làm công tạo hóa
Mười là chủ nhân dân, đất nước.
Nếu Vua thành tựu mười thắng đức
Phạm Vương, Đế Thích và Chư Thiên
Dạ Xoa, La Sát, Quỷ Thần Vương
Ẩn mình thường lại hộ đất nước,
Long Vương hoan hỷ tuôn mưa ngọt
Lúa thóc được mùa muôn họ yên,
Khắp nơi trong nước sinh châu báu
Người, ngựa sức mạnh, không oán địch,
Ngọc báu Như ý hiện trước Vua
Các Vua cõi ngoài tự triều phục.
Ai sinh tâm ác với Quốc Vương
Một niệm khởi tâm thành mọi ác
Người ấy mạng chung đọa địa ngục
Chịu khổ nhiều kiếp khó hẹn ra.
Nếu dốc lòng thành chăm giúp Vua
Chư Thiên hộ niệm thêm phước lộc.
Trưởng Giả Trí Quang, ông nên biết:
Tất cả Nhân Vương do nghiệp cảm
Các pháp đều do nhân duyên thành
Nếu không nhân duyên không các pháp.
Nói không sinh Thiên và cõi ác
Những người như thế không hiểu nhân
Không nhân, không quả: đại tà kiến
Không biết tội, phước sinh vọng chấp.
Nay Vua được hưởng mọi phước vui
Xưa kia từng giữ ba tịnh giới
Giới đức huân tu chiêu cảm tới
Diệu quả Trời, người, được thân Vua.
Nếu người phát khởi tâm bồ đề
Nguyện lực giúp thành quả vô thượng
Giữ bền giới tịnh trong Thượng Phẩm
Đi, ở tự tại làm Pháp Vương.
Thần thông biến hóa khắp mười phương
Tùy duyên giúp hết cả muôn loại.
Trung Phẩm thọ trì Bồ Tát giới
Phước đức tự tại Chuyển Luân Vương
Tùy tâm làm gì đều nên cả
Vô lượng Trời, người đều tuân phụng.
Hạ Thượng Phẩm trì: Đại Quỷ Vương
Tất cả Phi Nhân đều theo phục
Thọ trì giới phẩm tuy khuyết phạm
Nhưng do giới thắng được làm Vua.
Hạ Trung Phẩm trì: Cầm Thú Vương
Tất cả chim muôn đều quy phục
Trong giới thanh tịnh có khuyết phạm
Nhưng do giới thắng được làm Vua.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba