Phật Thuyết Kinh đại Thừa Bồ Tát Tạng Chánh Pháp - Phẩm Một - Phẩm Trưởng Giả Hiền Hộ - Tập Hai
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
PHẬT THUYẾT KINH
ĐẠI THỪA BỒ TÁT TẠNG CHÁNH PHÁP
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
PHẨM MỘT
PHẨM TRƯỞNG GIẢ HIỀN HỘ
TẬP HAI
Lúc đó, Đức Thế Tôn lập lại nghĩa trên nói kệ rằng:
Chúng sinh nhiều sân hận
Làm tổn hại lẫn nhau
Đã hiện sẽ tổn hại
Thành mười việc tổn hại
Người yêu không sinh hại
Đã làm và sẽ làm
Đang làm cũng như thế
Không thành pháp tổn hại
Ngã không phải bạn yêu
Làm các việc tổn hại
Đã, hiện, sẽ cũng vậy
Sinh tội nghiệp tổn hại
Và lỗi lầm vô nghĩa
Mười tổn hại trói buộc
Ta thấy pháp tổn hại
Mới tịnh tín xuất gia.
Lại nữa, này trưởng giả! Trong mọi thứ kiến, các hiểm ác kiến tích tập lại trong thế gian, khổ này rất lớn.
Hiểm ác kiến có mười thứ:
1. Đối với ngã kiến khởi lên hiểm ác kiến.
2. Đối với chúng sinh kiến khởi lên hiểm ác kiến.
3. Đối với thọ giả kiến khởi lên hiểm ác kiến.
4. Đối với nhân kiến khởi lên hiểm ác kiến.
5. Đối với đoạn kiến khởi lên hiểm ác kiến.
6. Đối vơi thường kiến khởi lên hiểm ác kiến.
7. Đối với vô tác kiến khởi lên hiểm ác kiến.
8. Đối với vô nhân kiến khởi lên hiểm ác kiến.
9. Đối với bất bình đẳng kiến khởi lên hiểm ác kiến.
10. Đối với tà kiến khởi lên hiểm ác kiến.
Ta thấy được mười thứ hiểm ác kiến này rồi, vì muốn chúng sinh phá tất cả các kiến ấy, nên mới phát lòng tin thanh tịnh xuất gia, hướng đến chứng quả Chánh Đẳng, Chánh Giác.
Lúc đó, Đức Thế Tôn lập lại nghĩa trên liền nói kệ rằng:
Ngã, nhân, chúng sinh kiến
Thọ giả kiến cũng thế
Các kẻ ngu dị sinh
Hiểm ác kiến che lấp
Đoạn, thường và vô tác
Tà vô nhân bất bình
Khiến an trụ chánh kiến
Vì thế ta xuất gia
Ta ở trong tăng kỳ
Na do tha trăm ngàn
Vô số câu chi kiếp
Vì lợi lạc chúng sinh.
Lại nữa, này trưởng giả!
Có mũi tên bệnh nặng bắn vào thế gian, khổ này rất lớn.
Có mười mũi tên bệnh nặng:
1. Mũi tên ái.
2. Mũi tên vô minh.
3. Mũi tên dục.
4. Mũi tên tham.
5. Mũi tên sân.
6. Mũi tên si.
7. Mũi tên mạn.
8. Mũi tên kiến.
9. Mũi tên thành.
10. Mũi tên hoại.
Ta muốn khiến cho tất cả chúng sinh đều nhổ sạch mười mũi tên bệnh nặng này, nên ta mới phát lòng tin thanh tịnh xuất gia hướng đến chứng quả Chánh Đẳng, Chánh Giác.
Lúc đó, Đức Thế Tôn muốn lập lại nghĩa trên liền nói kệ rằng:
Tên ái chứa tham lam
Vô trí nên tối tăm
Vô minh si che lấp
Quay tròn trong khổ uẩn
Tên dục theo đó bắn
Tên tham luôn đeo đuổi
Tên sân khởi hôn mê
Tên si phủ che lấp
Tên kiến khởi trái ngược
Mạn, thành, hoại cũng thế
Những kẻ ngu dị sinh
Mới hủy báng lẫn nhau
Hư vọng mất chân thật
Dấy lên sự tranh cãi
Phá tên bệnh thế gian
Chỉ pháp vô sinh Phật
Các chúng sinh thế gian
Thường bị tên bắn vào
Vì cứu hộ dứt trừ
Khiến tất cả lìa khổ.
Lại nữa, này trưởng giả! Các pháp ái, các pháp tích tập kiến lập căn bản ở thế gian, khổ này rất lớn.
Nền tảng của ái có mười thứ:
1. Do ái duyên cho nên khởi lên tìm cầu.
2. Do tìm cầu, cho nên sinh tham trước.
3. Do tham trước, cho nên nổi lên ngã kiến.
4. Do ngã kiến, cho nên chấp quyết định.
5. Do chấp quyết định, cho nên sinh tham dục.
6. Do tham dục, cho nên khởi chấp trước.
7. Do chấp trước, cho nên sinh xan lận.
8. Do xan lận, cho nên chấp thủ.
9. Do chấp thủ, cho nên không phòng hộ.
10. Do không phòng hộ, nên sinh các khổ.
Do không phòng hộ nên mới cầm dao gậy chiến đấu tranh cãi. Vì lý do đó cho nên nói hai lưỡi gây nhiều tội lỗi bất thiện. Ta do thấy được mười thứ nền tảng ái hợp tập thế gian, muốn khiến cho chúng sinh an lập pháp không nền tảng, nên mới phát lòng tin thanh tịnh xuất gia, hướng đến chứng quả Chánh Đẳng, Chánh Giác.
Khi ấy, Đức Thế Tôn lập lại nghĩa trên bằng kệ rằng:
Chúng sinh bởi vì ái
Cho nên khởi tìm cầu
Được lợi tham ngã kiến
Vì thọ nên quyết định
Việc này ta sẽ làm
Tham dục càng tăng trưởng
Tham dục tăng trưởng rồi
Chấp trước sinh xan lận
Lỗi xan tham thế gian
Kiên cố lại chấp trước
Do chấp nên không hộ
Tội lỗi cứ khởi mãi
Người ngu do không hộ
Cầm đao gậy tổn hại
Gây ra nhiều tội nghiệp
Về sau khổ càng tăng
Ái duyên tăng trưởng rồi
Mới sinh ra các khổ
Ta chứng quả bồ đề
Khiến trụ không căn bản.
Lại nữa, này trưởng giả! Tụ pháp tà định tích tập ở thế gian, khổ này rất lớn.
Tà pháp có mười:
1. Nhận thức tà vạy.
2. Suy nghĩ tà vạy.
3. Lời nói tà vạy.
4. Nghiệp tà vạy.
5. Mạng tà vạy.
6. Tinh tấn tà vạy.
7. Niệm tà vạy.
8. Định tà vạy.
9. Giải thoát tà vạy.
10. Trí tà vạy.
Ta thấy được mười thứ tà định tích tập ở thế gian, khổ này rất lớn. Vì muốn khiến cho tất cả chúng sinh thoát khỏi tà pháp, nên mới phát lòng tin thanh tịnh xuất gia, hướng đến chứng quả Chánh Đẳng, Chánh Giác.
Khi ấy, Đức Thế Tôn lập lại nghĩa trên bằng kệ rằng:
Chất chứa các tà kiến
Cảnh giới suy nghĩ tà
Toàn nói lời tà ngụy
Làm các việc tà nghiệp
Tà mạng và tà cần
Tà niệm cùng tà định
Nỗi lên tà giải thoát
Hướng thẳng đến tà trí
Các tụ tà định này
Kẻ ngu si gầy dựng
Khiến chuyển tà theo chánh
Thế nên ta xuất gia.
Lại nữa, này trưởng giả! Đường ác hiểm sâu, tích tập ở thế gian, khổ này rất lớn, dần dần hướng đến nẻo ác, tăng trưởng nẻo ác và làm lớn nẻo ác.
Đó là mười nghiệp bất thiện:
1. Giết hại.
2. Trộm cắp.
3. Tà nhiễm.
3. Nói dối.
4. Nói thêu dệt.
5. Nói hai lưỡi.
6. Nói ác.
7. Tham lam.
8. Sân hận.
9. Tà kiến.
Mười thứ nghiệp bất thiện này dần dần hướng đến nẻo ác, tăng trưởng nẻo ác và mở rộng nẻo ác. Ta thấy vậy rồi, muốn khiến chúng sinh lìa mọi đường hiểm, nên mới phát lòng tin thanh tịnh xuất gia, hướng đến chứng quả Chánh Đẳng, Chánh Giác.
Khi ấy, Đức Thế Tôn lập lại nghĩa trên bằng kệ rằng:
Chúng sinh khởi giết hại
Cướp đoạt của người khác
Dục, tà hạnh, biến hành
Mau đọa vào Địa Ngục
Hai lưỡi và nói ác
Nói dối không quyết định
Người ngu nói thêu dệt
Dị sinh phiền não trói
Tâm tham thích của giàu
Sân gây các lỗi lầm
Tà kiến phá hoại nhiều
Sẽ đọa vào đường ác
Thân có ba nghiệp tội
Miệng bốn nghiệp nên biết
Ý ba nghiệp cũng vậy
Người làm đọa đường ác
Nếu ai tạo các tội
Nhất định đọa đường ác
Nếu lìa ba tội này
Thì không đọa đường ác.
Lại nữa, này trưởng giả! Phiền não, tùy phiền não, các nhơ bẩn tạp nhiễm tích tập thế gian, khổ này rất lớn.
Tạp nhiễm có mười:
1. Nhơ bẩn keo kiệt tạp nhiễm.
2. Nhơ bẩn phá giới tạp nhiễm.
3. Nhơ bẩn sân nhuế tạp nhiễm.
4. Nhơ bẩn biếng nhác tạp nhiễm.
5. Nhơ bẩn tán loạn tạp nhiễm.
6. Nhơ bẩn ác tuệ tạp nhiễm.
7. Nhơ bẩn vô văn tạp nhiễm.
8. Nhơ bẩn si hoặc tạp nhiễm.
9. Nhơ bẩn không tin hiểu tạp nhiễm.
10. Nhơ bẩn không tôn trọng tạp nhiễm.
Mười thứ nhơ bẩn tạp nhiễm như vậy tích tập ở thế gian. Ta thấy vậy rồi, muốn khiến cho tất cả chúng sinh an trụ pháp vô nhiễm, cho nên mới phát lòng tin thanh tịnh xuất gia, hướng đến chứng quả Chánh Đẳng, Chánh Giác.
Khi ấy, Đức Thế Tôn lập lại nghĩa trên bằng kệ rằng:
Pháp thế gian liên tục
Mười tạp nhiễm bức bách
Đắm tạp nhiễm hữu vi
Tạm thời không mệt mỏi
Các kẻ ngu dị sinh
Bị nhơ bẩn tham nhiễm
Giới học nhiếp chúng sinh
Nhưng lại hủy giới ấy
Kẻ ngu trái nhẫn nhục
Biếng nhác ít siêng năng
Tâm không thể an định
Ác tuệ thêm đần độn
Xa lìa cả cha mẹ
Tôn trưởng và thầy tổ
Không thấy được ánh sáng
Ác tuệ khởi niệm si
Phật nói pháp thậm thâm
Mà lại sinh hủy báng
Bị si ám che lấp
Không tôn trọng Thánh pháp
Thấy pháp tạp nhiễm rồi
Không còn đắm hữu vi
Không nhiễm ô vô vi
Khiến chúng sinh vắng lặng.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ - Phẩm Sáu - Phẩm Quán Thiên Dạ Ma Thiên - Tập Mười Một
Phật Thuyết Kinh Tăng Chi Bộ - Chương Một - Một Pháp - Phẩm Mười Sáu - Phẩm Một Pháp
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Ba - Pháp Hội Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ - Phần Bốn
Phật Thuyết Kinh Bát Danh Phổ Mật đà La Ni
Phật Thuyết Kinh đại Phương đẳng Vô Tưởng - Chương Mười Sáu - Kim Cương Trí