Phật Thuyết Kinh đại Thừa Bồ Tát Tạng Chánh Pháp - Phẩm Một - Phẩm Trưởng Giả Hiền Hộ - Tập Năm

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn

PHẬT THUYẾT KINH

ĐẠI THỪA BỒ TÁT TẠNG CHÁNH PHÁP

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn  

PHẨM MỘT

PHẨM TRƯỞNG GIẢ HIỀN HỘ  

TẬP NĂM  

Pháp nào không bị giảm mất?

Là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp không bị giảm mất. Sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn không giảm mất. Nhãn giới, thức giới, nhãn thức giới, cho đến ý giới, pháp giới, ý thức giới không giảm mất. Địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới không bị giảm mất.

Nếu các pháp này không giảm mất thì không có nhiễm ô. Do không nhiễm ô, cho nên mau chóng được khinh an.

Pháp nào là khinh an?

Là không sở kiến. Nếu không sở kiến thì hướng đến tất cả, không có một pháp nhỏ nào làm chướng ngại. Nếu không chướng ngại thì không hại chính mình, không hại người khác, không hại mình và người. Do không hại cho nên tâm không bị hoại. Vì thế nên có khả năng nhập vào vô dư y thanh tịnh Niết Bàn.

Lại nữa, này các trưởng giả! Nói nhập, vậy nhập vào cái gì?

Là không phải mắt sở nhập, không phải tai, mũi, lưỡi, thân, ý sở nhập.

Lại nữa, này các trưởng giả! Nếu chấp rằng mắt thành từ duyên, thì là chấp vào ngã và ngã sở. Do vậy lìa xa Niết Bàn.

Sao gọi là lìa xa Niết Bàn?

Vì tham cho nên lìa xa Niết Bàn. Vì sân cho nên lìa xa Niết Bàn. Vì si cho nên lìa xa Niết Bàn. Vì Vô trí cho nên lìa xa Niết Bàn.

Này các trưởng giả! Người vô trí không lìa quá khứ, không lìa vị lai, không lìa hiện tại, vô trí quyết định lìa trí sở sinh.

Sao gọi là trí? 

Là vô tận trí.

Sao gọi là tận trí?

Là quá khứ vô tận trí, vị lai vô tận trí, hiện tại vô tận trí, duyên pháp vô trí lìa trí sở sinh. Vô trí lìa trí ấy tức là mắt từ duyên lìa trí sở sinh, nên mắt là vô ngã. Nếu vô ngã thì không có chấp thủ. Nếu không chấp thủ thì là không xả. Nếu không xả thì là giải thoát.

Sao gọi là giải thoát?

Là giải thoát ngã chấp, giải thoát chúng sinh chấp, giải thoát thọ giả chấp, giải thoát nhân chấp, giải thoát đoạn, thường chấp, giải thoát tất cả chấp, giải thoát phân biệt chấp. Khi đã không còn phân biệt thì không còn năng phân biệt và sở phân biệt. Pháp không phân biệt cũng không lìa phân biệt.

Sao gọi là không phân biệt?

Là không còn phân biệt ngã và ngã sở. Nếu không còn phân biệt ngã thì không còn lấy bỏ. Nếu không còn lấy bỏ thì là nhập vào giải thoát, lìa pháp, lìa trói buộc, hoặc pháp không phải lìa trói buộc, cả hai đều được xuất ly.

Sao gọi là lìa?

Là lìa tất cả khổ.

Này các trưởng giả! Các ông nên cầu pháp xuất ly như vậy. Nhưng đối với pháp ấy không có pháp nào có thể chấp thủ.

Vì sao?

Vì còn chấp thủ thì còn sinh sợ hãi.

Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm rõ nghĩa trên bèn lập lại kệ rằng:

Nếu còn chấp pháp thì còn sợ

Do sợ nên đọa vào đường ác

Nếu thấy nhân sợ hãi như vậy

Do biết pháp có nên chấp thủ

Nếu đúng như lý quán chánh đạo

Ánh sáng trí tuệ phá tối tăm

Do thấy được trí tuệ thù thắng

Nên biết dị tánh không thể được

Phải nên quán kỹ các không xứ

Vận động hư giả lại không thật

Trong đó chớ chấp môn an lạc

Thế gian hư cuồng vì khát ái

Biết rõ như thật đối pháp không

Biết các pháp không đều không thật

Ta được an lạc lìa khổ não

Cũng được không động vui tối thượng

Nếu hay hiểu rõ đúng như vậy

Thì biết tất cả pháp đều không

Do vậy thoát khỏi các nhân khổ

Tranh cãi từ đâu mà xảy ra

Bởi do dục vọng sinh chấp trước

Vì chấp nên sinh các phiền não

Chấp đó chính là tên của thủ

Do thủ cho nên sinh ba hữu

Vì hữu có sinh nên luân chuyển

Chấm dưt ba hữu tức không sinh

Pháp già, bệnh, chết cũng không có

Rốt ráo không thọ khổ vô thường

Nên biết không dục thì không thủ

Do không thủ nên không ba hữu

Nếu như hữu dứt tức không sinh

Khổ, già, bệnh, chết đều không thọ

Thế nên, này trưởng giả các ông

Đồng phát xả ly tâm chấp trước

Bỏ các quyến thuộc nhân thương yêu

Mau chóng thành tựu tướng

Bí Sô biết rằng tài lợi các mong muốn

Phải cần sinh tâm biết vừa đủ

Tùy chổ khiêm cung khởi hạ tâm

Hướng đến mọi người tăng thiện lợi

Chớ khởi ý chấp ta giữ giới

Chớ xem người là kẻ phá giới

Đối với giới tướng trì phạm ấy

Chớ khinh chê người là phạm giới

Ví như nai rừng bị mắc bẩy

Nên biết chính nó tự tổn hại

Quỷ trói buộc tâm hại cũng thế

Hủy người, bị hại cũng như vậy

Người ngu sinh các ý tổn hại

Khen mình chê người tội rất lớn

Người phá giới còn không hủy báng

Huống là người trì giới phạm hạnh

Người học trên chúng đủ dũng trí

Thường tu hạnh tịch tĩnh viễn ly

Lìa bỏ thân mạng không luyến tiếc

Cần cầu pháp giải thoát tịch tĩnh

Các kẻ ngoại đạo và điển chương

Căn bản không lợi đều xa lìa

Ham thích chánh pháp rất thậm thâm

Tuyên nói pháp ấy lý chơn không

Nếu biết tâm căn bản xứ này

Đó là trong ngoài mười hai xứ

Từ đó sinh khởi các nghiệp nhân

Nghiệp xứ cửu trụ gọi tư pháp

Nhãn căn, sắc cảnh hai thứ duyên

Nhãn thức sinh duyên là ba việc

Nếu không hòa hợp thì phá tan

Như không củi, lửa nghĩa như vậy

Như vậy chỗ sinh tất cả pháp

Hòa hợp lẫn nhau nên có sinh

Người tạo, người nhận thảy đều không

Chánh đạo thường hiện các tạo tác

Các pháp trong ngoài được thành thân

Trong đó nên biết pháp ngã không

Người ngu điên đảo tâm chấp trước

Đối ngã, ngã sở không biết gì

Trong mắt không pháp mà lại có

Bên ngoài cũng lại không sở đắc

Vô ngã, vô tác, vô thọ giả

Nên biết các pháp cũng như vậy

Không mắt, biến tư, dục giải thoát

Tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng vậy

Sắc không chuyển vào không tạo tác

Nên quán các pháp cũng như vậy

Như nước biển cả nổi cơn sóng

Tạm nổi bọt nước nhưng không thật

Hãy quán kỹ mắt cũng như thế

Không chắc, không lực, như bọt nước

Tự tánh năm uẩn giả hòa hợp

Như bọt nước kia không chắc chắn

Giải thoát tất cả các phiền não

Và sinh, già cùng các ưu não

Ta dạy các ông xuất gia rồi

Hiểu rõ tất cả pháp như huyễn

Không có lừa gạt tâm tín thí

Lại hay cúng khắp mười phương Phật.

Nghe Đức Phật nói chánh pháp thậm thâm, năm trăm trưởng giả được pháp nhãn tịnh, xa lìa trần cấu ngay ở giữa đường. Ví như áo trắng dễ dính các màu khác, năm trăm trưởng giả này, ở nơi đây xa lìa trần cấu được pháp nhãn tịnh cũng lại như vậy.

Lúc đó, Đức Thế Tôn lại vì năm trăm trưởng giả tuyên nói pháp yếu, chỉ dạy làm cho lợi ích an vui.

Đức Phật dạy: Này các trưởng giả! Mắt rất hừng hẫy.

Sao gọi là hừng hẫy?

Là lửa tham, lửa sân, lửa si hừng hẫy. Lửa sinh già, bệnh, chết, lo, buồn, khổ não hừng hẫy. Ta nói pháp này tự chịu khổ não.

Tai, mũi, lưỡi, thân, ý hừng hẫy cũng vậy.

Sao gọi là hừng hẫy?

Là lửa tham, lửa sân, lửa si hừng hẫy, lửa sinh, già, bệnh, chết, lo, buồn, khổ não hừng hẫy. Ta nói pháp này tự chịu khổ não.

Sắc trần hừng hẫy.

Sao gọi là hừng hẫy?

Là lửa tham, lưa sân, lửa si hừng hẫy. Các loại lửa thanh, hương, vị, xúc, pháp cũng lại như vậy.

Lại nữa, này các trưởng giả! Sắc uẩn hừng hẫy.

Sao gọi là hừng hẫy?

Là lửa tham, lửa sân, lửa si hừng hẫy. Các loại lửa thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn hừng hẫy cũng lại như vậy. Nghĩa của mười tám giới pháp cũng thế.

Lại nữa, này các trưởng giả! Địa giới hừng hẫy, lửa tham, lửa sân, lửa si hừng hẫy. Thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới hừng hẫy cũng lại như vậy. Lửa tham, lửa sân, lửa si hừng hẫy. Sinh, già, bệnh, chết, lo, buồn, khổ não hừng hẫy cũng vậy. Ta nói pháp này tự chịu khổ não.

Lại nữa, này các trưởng giả! Mắt không chấp thủ, nên học như vậy. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng không chấp thủ. Sắc không chấp thủ. Thanh, hương, vị, xúc, pháp cũng không chấp thủ. Phải nên học như vậy.

Lại nữa, này các trưởng giả! Sắc uẩn không chấp thủ. Thọ uan, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn và mười tám giới đều không chấp thủ. Phải nên học như vậy.

Lại nữa, này các trưởng giả! Địa giới không chấp thủ. Thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới cũng không chấp thủ. Phải nên học như vậy.

Lại nữa, này các trưởng giả! Giới này không chấp thủ, giới kia không chấp thủ. Phải nên học như vậy.

Lại nữa, này các trưởng giả! Nếu mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý không chấp thủ, thì không có nương tựa. Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp không chấp thủ, cho nên đối với các xứ không có nương tựa.

Lại nữa, này các trưởng giả! Sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn và mười tám giới không chấp thủ, cho nên đối với uẩn giới ấy không có nương tựa.

Lại nữa, này các trưởng giả! Địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới, vốn không chấp thủ, cho nên đối với sáu giới không có nương tựa.

Lại nữa, này các trưởng giả! Giới này, giới kia không chấp thủ, cho nên đối với tất cả Thế Giới không có nương tựa.

Lại nữa, này các trưởng giả! Nếu tất cả pháp không chấp thủ, thì đối với tất cả pháp không có nương tựa.

Này các trưởng giả! Tất cả pháp không sở đắc, cũng không phải không sở đắc. Nếu có khả năng hiểu rõ không sở đắc, không phải không sở đắc thì có khả năng giải thoát sinh, già, bệnh, chết, lo, buồn, khổ, não. Ta nói pháp này là giải thoát các khổ.

Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa trên, lập lại kệ rằng:

Các thế gian này rất hừng hẫy

Hai lửa sinh tử đốt rụi sạch

Kẻ ngu nhiễu não không ai cứu

Đạo pháp Thánh Tôn thường bất diệt

Pháp nào làm ánh sáng thế gian

Có Phật Như Lai nay xuất hiện

Sát na khéo quán môn chánh đạo

Phát khởi tinh tấn thường kiên cố

Thường quán các pháp không nương tựa

Ánh sáng trí tuệ phá tối tăm

Do thấy nên được tuệ thù thắng

Nên biết dị tánh không thể được

Nếu hay quán sát không nương tựa

Biết rõ tất cả pháp đều không

Biết rõ pháp môn không như vậy

Tâm bồ đề không, không sở hữu

Nên biết các pháp tham, sân, si

Ba ngọn lửa này rất mãnh liệt

Đốt sạch thọ mạng cả thế gian

Thùy miên ngủ mãi ngu không biết

Tất cả sinh già và bệnh, chết

Lo buồn khổ não luôn bức bách

Nên biết nhiễu não các thế gian

Tất cả pháp ấy không nương tựa.

Nghe Đức Thế Tôn nói chánh pháp như vậy, năm trăm trưởng giả tâm ý được sáng ra, liền bạch Đức Phật: Bạch Thế Tôn! Hôm nay chúng con quyết được thiện lợi, đối với pháp Phật phát lòng tin thanh tịnh xuất gia, lại ở ngay chỗ Phật đầy đủ tịnh giới.

Khi ấy, Đức Phật khen: Lành thay, các Bí Sô! Đức Phật vừa khen xong, râu tóc của các trưởng giả liền rụng, thân mặc Ca Sa, thành tướng Bí Sô.

Lúc đó, Đức Thế Tôn nói kệ rằng:

Các ông thọ trì y Ca Sa

Râu tóc tự rụng đều thanh tịnh

Tay cầm bình bát tướng tròn đầy

Tất cả đều thành A La Hán

Đã chứng quả rồi nương Pháp Sư

Đều nói Ốt Đà Nam thanh tịnh

Ở trước hàng Trời, Người đại chúng

Viên mãn thanh tịnh tướng Bí Sô

Thuở xưa từng ở chỗ Chư Phật

Đều tu hạnh bố thí rộng lớn

Một lời lành thay sinh hoan hỷ

Mọi nơi đều tu các thiện pháp

Nay được thấy ta xuất thế gian

Phát tâm thanh tịnh càng tối thắng

Do tâm thanh tịnh tối thắng ấy

Nên được nghe pháp tịnh tối thượng

Nghe Phật dạy rồi chứng Thánh quả

Xa lìa ngã kiến các chấp trước

Hiện tiền pháp không, ngộ viên thành

Đời này đã hết đều giải thoát.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần