Phật Thuyết Kinh Tăng Chi Bộ - Chương Mười Một - Mười Một Pháp - Phẩm Hai - Phẩm Tùy Niệm - Phần Bốn - Từ

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:19 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán

PHẬT THUYẾT

KINH TĂNG CHI BỘ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

 An Thế Cao, Đời Hậu Hán  

CHƯƠNG MƯỜI MỘT

MƯỜI MỘT PHÁP  

PHẨM HAI

PHẨM TÙY NIỆM  

PHẦN BỐN

TỪ  

Này các Tỳ Kheo, từ tâm giải thoát được thực hành, được tu tập, được làm cho sung mãn, được tác thành cỗ xe, được tác thành căn cứ địa, được tiếp tục an trú, được tích tập, được khéo khởi sự thời được chờ đợi là mười một lợi ích.

Thế nào là mười một?

Ngủ an lạc, thức an lạc, không ác mộng, được loài người ái mộ, được phi nhân ái mộ, Chư Thiên bảo hộ, không bị lửa, thuốc độc, kiếm xúc chạm, tâm được định mau chóng, sắc mặt trong sáng, mệnh chung không hôn ám. Nếu chưa thể nhập thượng pháp A La Hán quả.

Được sanh lên Phạm Thiên Giới.

Này các Tỳ Kheo, từ tâm giải thoát được thực hành, được tu tập, được làm cho sung mãn, được tác thành cỗ xe, được tác thành căn cứ địa, được tiếp tục an trú, được tích tập, được khéo khởi sự thời được chờ đợi là mười một lợi ích.  

GIA CHỦ DASAMA  

Một thời, Tôn Giả A Nan Đà trú ở Vesàli, tại làng Beluvagàmaka. Lúc bấy giờ, Gia Chủ Dasama, trú ở thành Atthaka, đã đi đến Pàtiliputta vì một vài công việc.

Rồi Gia Chủ Dasama, dân ở thành Atthaka đi đến một Tỳ Kheo, sau khi đến, thưa với Tỳ Kheo ấy: Thưa Tôn Giả, Tôn Giả A Nan Đà nay trú ở đâu?

Thưa Tôn Giả, con muốn yết kiến Tôn Giả A Nan Đà.

Này Gia Chủ, Tôn Giả A Nan Đà nay trú ở Vesàli, tại làng Beluvagàmaka.

Rồi Gia Chủ Dasama, dân ở thành Atthaka, sau khi làm công việc xong ở Pàtiliputta, đi đến Vesàli, Beluvagàmaka, đi đến Tôn Giả A Nan Đà, sau khi đến, đảnh lễ Tôn Giả A Nan Đà rồi ngồi xuống một bên.

Ngồi xuống một bên, Gia Chủ Dasama, dân ở thành Atthaka thưa với Tôn Giả A Nan Đà: Có một pháp nào, thưa Tôn Giả A Nan Đà được Thế Tôn, bậc đã biết, bậc đã thấy, bậc A La Hán, Chánh Ðẳng Giác khéo nói, chính ở nơi đây, Tỳ Kheo trú không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, sẽ giải thoát tâm chưa được giải thoát, hay sẽ đưa đến chấm dứt các lậu hoặc chưa được đoạn tận, hay đạt được Vô Thượng an ổn khỏi các khổ ách chưa đạt được?

Này Gia Chủ, có một pháp, được Thế Tôn, bậc đã biết hay đạt được Vô Thượng an ổn khỏi các ách khổ chưa đạt được.

Nhưng thưa Tôn Giả A Nan Đà, một pháp ấy là gì, được Thế Tôn, bậc đã biết, bậc đã thấy, bậc A La Hán, Chánh Ðẳng Giác khéo thuyết, chính ở nơi đây, Tỳ Kheo trú không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, sẽ giải thoát tâm chưa được giải thoát, hay sẽ đưa đến chấm dứt các lậu hoặc chưa được đoạn tận, hay đạt được vô thượng an ổn khỏi các khổ ách chưa đạt được?

Ở đây, này Gia Chủ, Tỳ Kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng đạt và an trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ.

Vị ấy quán sát như sau: Thiền thứ nhất này thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm.

Phàm cái gì thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm, vị ấy quán tri: Cái gì là vô thường, chịu sự đoạn diệt.

Vị ấy an trú ở đấy, đạt được sự đoạn diệt các lậu hoặc.

Nếu không đạt được sự đoạn diệt các lậu hoặc, với tham ái ấy đối với pháp, với hoan hỷ ấy đối với pháp, với sự đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, vị ấy được hóa sanh, tại đấy nhập Niết Bàn, không còn phải trở lui Thế Giới ấy nữa.

Này Gia Chủ, đây là một pháp này, được Thế Tôn, bậc đã biết, bậc đã thấy, bậc A La Hán, Chánh Ðẳng Giác Vô Thượng an ổn khỏi các khổ ách chưa đạt được.

Lại nữa, này Gia Chủ, Tỳ Kheo, làm cho tịnh chỉ tầm và tứ, chứng đạt và an trú thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm, và an trú thiền thứ ba và an trú thiền thứ tư.

Vị ấy quán sát như sau: Thiền thứ tư này thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm.

Phàm cái gì không còn phải trở lui Thế Giới ấy nữa.

Này Gia Chủ, đây là một pháp này, được Thế Tôn, bậc đã biết, bậc đã thấy, bậc A La Hán, Chánh Ðẳng Giác Vô Thượng an ổn khỏi các khổ ách chưa đạt được.

Lại nữa, này Gia Chủ, Tỳ Kheo với tâm câu hữu với từ, an trú biến mãn một phương.

Như vậy phương thứ hai, như vậy phương thứ ba.

Như vậy phương thứ tư, như vậy cùng khắp Thế Giới trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm cầu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.

Vị ấy quán sát như sau: Từ tâm giải thoát này thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm.

Phàm cái gì không còn trở lui Thế Giới ấy nữa. Này Gia Chủ, đây là một pháp, được Thế Tôn, bậc đã biết, bậc đã thấy, bậc A La Hán, Chánh Ðẳng Giác Vô Thượng an ổn khỏi các khổ ách chưa đạt được.

Lại nữa, này Gia Chủ, Tỳ Kheo với tâm câu hữu với bi với tâm câu hữu với hỷ với tâm câu hữu với xả, an trú biến mãn một phương. Như vậy phương thứ hai, như vậy phương thứ ba. Như vậy phương thứ tư.

Như vậy cùng khắp Thế Giới trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.

Vị ấy quán sát như sau: Xả tâm giải thoát này thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm.

Phàm cái gì không còn trở lui Thế Giới ấy nữa.

Này Gia Chủ, đây là một pháp, được Thế Tôn, bậc đã biết, bậc đã thấy, bậc A La Hán, Chánh Ðẳng Giác Vô Thượng an ổn khỏi các khổ ách chưa đạt được.

Lại nữa, này Gia Chủ, Tỳ Kheo vượt qua một cách hoàn toàn các sắc tưởng, chấm dứt các tưởng chướng ngại, không tác ý các tưởng sai biệt, nghĩ rằng: Hư không là vô biên, chứng đạt và an trú Không vô biên xứ.

Vị ấy quán sát như sau: Chứng đắc Không vô biên xứ này thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm.

Phàm cái gì không còn trở lui Thế Giới ấy nữa. Này Gia Chủ, đây là một pháp, được Thế Tôn, bậc đã biết, bậc đã thấy, bậc A La Hán, Chánh Ðẳng Giác Vô Thượng an ổn khỏi các khổ ách chưa đạt được.

Lại nữa, này Gia Chủ, sau khi vượt không vô biên xứ một cách hoàn toàn, biết rằng: Thức là vô biên, chứng đạt và an trú thức vô biên xứ sau khi vượt thức vô biên xứ một cách hoàn toàn, biết rằng: Vô sở hữu xứ, chứng đạt và an trú Vô sở hữu xứ.

Vị ấy quán sát như sau: Chứng đắc Vô sở hữu xứ này thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm.

Phàm cái gì không còn trở lui Thế Giới ấy nữa.

Này Gia Chủ, đây là một pháp, được Thế Tôn, bậc đã biết, bậc đã thấy, bậc A La Hán, Chánh Ðẳng Giác Vô Thượng an ổn khỏi các khổ ách chưa đạt được.

Khi nghe nói vậy, Gia Chủ Dasama, dân ở thành Atthaka thưa với Tôn Giả A Nan Đà: Thưa Tôn Giả A Nan Đà, ví như một người tìm một cái cửa vào chỗ chôn cất, trong một lúc, tìm ra được mười một cái cửa.

Cũng vậy, thưa Tôn Giả, trong khi đi tìm một cửa bất tử, trong một lúc, con tìm ra mười một cái cửa bất tử.

Ví như, thưa Tôn Giả, trong một ngôi nhà chỉ có một cái cửa, và nhà ấy bị cháy, người ấy chỉ có thể ra bằng một cửa để có thể được an toàn cho mình.

Cũng vậy, thưa Tôn Giả, với mười một cửa bất tử này, con có thể tạo được sự an toàn cho con với chỉ một cửa bất tử.

Thưa Tôn Giả, các ngoại đạo này sẽ tìm cầu tài sản của sư cho sư, tại sao con lại không đảnh lễ Tôn Giả A Nan Đà?

Rồi Gia Chủ Dasama, dân ở thành phố Atthaka mời họp các Tỳ Kheo chúng ở Vesàli và Pàtaputta, với các món ăn thượng vị loại cứng và loại mềm, tự tay dâng cúng cho đến khi Chúng Tăng được thỏa mãn, và mỗi Tỳ Kheo cúng một đôi y.

Nhưng riêng đối với Tôn Giả A Nan Đà, vị ấy cúng ba y đầy đủ và xây dựng một ngôi Tinh Xá giá trị năm trăm đồng tiền.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần