Phật Thuyết Kinh đại Thừa Bồ Tát Tạng Chánh Pháp - Phẩm Mười Một - Phẩm Tuệ Thù Thắng Ba La Mật đa - Tập Sáu
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
PHẬT THUYẾT KINH
ĐẠI THỪA BỒ TÁT TẠNG CHÁNH PHÁP
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
PHẨM MƯỜI MỘT
PHẨM TUỆ THÙ THẮNG BA LA MẬT ĐA
TẬP SÁU
Lại nữa, Tỳ bát xá na là quán các pháp thấy như không, không tướng, không nguyện nhưng không sai khác. Quán không có nhân, không khởi diệt xứ, cái thấy đó không có sở đắc, cái được đó không có sở quán.
Đối với không sở quán lại quán sát kỹ thì không có sở quán, biết rằng người quán cũng lại như vậy, người quán như vậy tức là thật quán. Đối với thật quán đó lại có khả năng đạt được Tỳ bát xá na chân thật thiện xảo. Các Bồ Tát đối với hạnh này không bị đọa lạc và cũng không đắm trước các thiện căn.
Này Xá Lợi Tử! Đó là Đại Bồ Tát thực hành hạnh tuệ thù thắng Ba la mật đa, nên đạt được pháp trợ đạo như vậy.
Các Bồ Tát đối với chánh đạo thiện xảo có bốn tướng:
1. Chưa sinh tội nghiệp các pháp bất thiện khiến chúng không khởi.
2. Đã sinh tội nghiệp các pháp bất thiện, khiến chúng đoạn trừ.
3. Chưa sinh thiện pháp thì làm cho nó phát khởi.
4. Thiện pháp đã sinh thì làm cho nó tăng trưởng không bị tổn hoại, tu các quán hạnh khiến không quên mất, phát tâm tinh tấn, nhiếp thọ chánh nguyện.
Như trên đã nói các pháp bất thiện khiến chúng không khởi, thâm tâm tác ý đều là khái niệm. Phát tâm tinh tấn, nhiếp thọ chánh nguyện, thâm tâm quán sát cũng là khái niệm.
Vì sao?
Vì pháp hợp tập, thâm tâm giải thoát. Đó gọi là thiện pháp.
Sao gọi là pháp bất thiện?
Là đối với giới, định, tuệ có chỗ đối trị.
Sao gọi là đối với giới đối trị?
Là đối với danh tự, giới và pháp sở tác hủy phạm đọa lạc.
Sao gọi là đối với định đối trị?
Là đối với Tam Ma Địa uẩn khởi tâm tán loạn phá hoại Thánh hạnh.
Sao gọi là đối với tuệ đối trị?
Là đối với các pháp khởi lên mọi nhận thức hiểu biết các việc chướng ngại, đối với tuệ uẩn thù thắng có chỗ hướng đến. Đó gọi là đối với giới, định, tuệ có chỗ đối trị.
Như trên đã nói, đã sinh tội nghiệp các pháp bất thiện, hành tướng như vậy thâm tâm tác ý, nên khiến đoạn trừ, phát tâm tinh tấn, nhiếp thọ chánh nguyện. Đây là pháp bất thiện.
Đem tâm che chở không nên khai thị, tâm thường thực hành tất cả thiện pháp, đối với sự đối trị tham, sân, si đều nên biết rõ nhân nơi phan duyên mà sinh, dùng quán bất tịnh mà đối trị tham dục, dùng quán từ bi đối trị sân nhuế, dùng quán duyên sinh đối trị si ám, tẩy sạch các phiền nao. Đó là giải thoát.
Lại nữa, không nên đoạn hết pháp sở hữu mà phải quán sát tất cả pháp. Đây gọi là đoạn hai chánh đoạn đầu.
Nói như vậy: Thiện pháp chưa sinh thì làm cho nó sinh, phát tâm tinh tấn nhiếp thọ chánh nguyện phương pháp này có vô lượng.
Vì sao?
Vì các Bồ Tát trồng các thiện căn, siêng năng tinh tấn, nhiếp thọ chánh hạnh, tích tập vô lượng thiện pháp như vậy. Đây gọi là chánh đoạn thứ ba.
Lại nữa, chánh đoạn là: Thiện pháp đã sinh thì làm cho nó tồn tại lâu dài không bị tổn hại, không bị quên mất, phát tâm tinh tấn, nhiếp thọ chánh nguyện. Nếu đem thiện căn này hồi hướng bồ đề thì là khái niệm.
Vì sao?
Vì không có bồ đề có thể hồi hướng, thiện căn này không thể phá hoại được.
Vì sao?
Vì phát tâm như trên không thoát ra ba cõi, nếu thoát ba cõi thì đối với thiện căn này nên dứt sạch.
Vì sao?
Vì phát tâm như vậy mới thoát khỏi ba cõi. Nếu không thoát khỏi ba cõi, mà có khả năng hồi hướng nhất thiết trí, đối với thiện căn này tức không có tận. Đây gọi là chánh đoạn thứ tư.
Này Xá Lợi Tử! Đây là Đại Bồ Tát thực hành tuệ thù thắng bala mật đa, nên đạt được bốn chánh đạo thiện xảo.
Lại nữa, các Bồ Tát đối với chánh đạo thiện xảo có năm tướng:
1. Tín căn.
2. Tinh tấn căn.
3. Niệm căn.
4. Tam Ma Địa căn.
5. Thắng tuệ căn.
Sao gọi là tín căn?
Tín có bốn pháp là khởi lên chánh kiến, tin có thế gian và nghiệp luân hồi, gặt lấy nghiệp báo làm đối trị, mạng căn ấy không tạo tội nghiệp. Tin Bồ Tát thực hành hạnh như vậy, đối với những vật dụng mỗi thân thể không sinh đắm trước. Đối với nghĩa thù thắng thậm thâm và các liễu nghĩa, phát sinh tin hiểu chân chánh.
Đối với hạnh của hữu tình, tin tất cả pháp tướng không vô tướng. Đối với các kiến tạo tác không thích tin hiểu, nghe pháp lực vô úy của Chư Phật rồi lìa mọi đắm trước và các ngôn thuyết khác, tích tập pháp của Chư Phật. Đây gọi là tín căn.
Sao gọi là tinh tấn căn?
Là tin pháp này phát khởi tinh tấn, đó là tinh tấn căn. Do tinh tấn này tích tập các pháp, đối với niệm căn ấy không thể bị phá hoại, đó gọi là niệm căn. Do niệm căn ấy không bị phá hoại nên đối với các pháp Tam Ma Địa, căn chỉ một cảnh tánh, đó gọi là Tam Ma Địa căn. Do Tam Ma Địa căn này chỉ một cảnh tánh, dùng tuệ căn này quán sát các pháp mà có khả năng biết rõ, đó gọi là tuệ căn.
Đối với năm Căn tích tập hệ thuộc như vậy nên viên mãn được tất cả Pháp Phật, cho đến địa vị thọ ký. Ví như người đạt được năm thần thông rồi thì không còn thọ thai, cho đến thoát khỏi căn của nam nữ, như Chư Phật Thế Tôn và các Bồ Tát. Đối với năm căn này mà được thành tựu, đây gọi là Đại Bồ Tát thực hanh hạnh tuệ thù thắng Ba la mật đa, cho nên đạt được năm chánh đạo thiện xảo.
Này Xá Lợi Tử! Chánh đạo của Bồ Tát có năm tướng:
1. Tín lực.
2. Tinh tấn lực.
3. Niệm lực.
4. Tam Ma Địa lực.
5. Thắng tuệ lực.
Sao gọi là Tín lực?
Là tin hiểu pháp. Giá như Ma Ba Tuần hóa làm thân Phật, đến thân cận nói pháp riêng khác, Bồ Tát nhờ tín lực nên đối với chánh pháp này, dù chỉ mảy nhỏ như trần sa cũng chớ phá hoại. Bồ Tát dùng trí quán sát nên mọi ma lực đều bị đoạn trừ.
Lại nữa, ma cho rằng pháp này không phải là Pháp Phật nói, đối với bốn đại chủng và các nghiệp báo, tích tập điên đảo, nhưng các Bồ Tát dùng sức tin hiểu, thâm tâm suy xét nên không tin thọ. Đây gọi là tín lực của Bồ Tát.
Sao gọi là Tinh tấn lực của Bồ Tát?
Là Bồ Tát phát khởi tinh tấn dũng mãnh, hiểu rõ thiện pháp, dù ở chỗ nào cũng giữ được sức kiên cố, hoặc trời, hoặc người có sức lực cũng không thể làm lay động trụ xứ của Bồ Tát. Đó gọi là tinh tấn lực của Bồ Tát.
Sao gọi là Niệm lực của Bồ Tát?
Là đối với pháp niệm xứ tâm ấy an trụ, mọi phiền não không thể nhiễu loạn, do niệm lực cho nên phá hoại các phiền não, đạt được chánh niệm thanh tịnh này. Đây gọi là niệm lực của Bồ Tát.
Sao gọi là Tam Ma Địa lực của Bồ Tát?
Là ở một mình nơi vắng lặng, lìa chỗ ồn ào, xa lìa tất cả nói năng, không có phan duyên đối trị, đó là Sơ Thiền định. Đối với thiện tầm từ không bị chướng ngại, đó là Nhị Thiền định.
Đối với hạnh hỷ lạc không bị chướng ngại, đó là Tam Thiền định. Đối với nhiếp thọ chánh pháp, hóa độ hữu tình, đạt được không lìa bỏ, không có chướng ngại, đó là Tứ Thiền định. Đối với hạnh tứ thiền định, pháp đối trị ấy không thể phá hoại, đối với định xứ ấy cũng không xa lìa, không sinh đắm trước Tam Ma Địa, đó gọi là Tam Ma Địa lực của Bồ Tát.
Sao gọi là Thắng tuệ lực của Bồ Tát?
Là có khả năng biết rõ pháp thế xuất thế trong khoảng sát na, đối với trí như vậy không thể phá hoại. Tất cả công xảo cho đến mọi kỹ nghệ ở thế gian, hoặc gần, hoặc xa, làm việc khó làm, nhưng các Bồ Tát hiện tiền đạt được pháp xuất thế gian, trí tuệ rạng ngời vượt hơn các thế gian, tất cả Trời, Người, A Tu La không thể phá hoại. Đó gọi là thắng tuệ lực của Bồ Tát.
Này Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát thực hành tuệ thù thắng Ba la mật đa nên đạt được năm chánh đạo thiện xảo như vậy.
Lại nữa, này Xá Lợi Tử! Lược nói tất cả Thánh đạo của Bồ Tát, đó là Bồ Tát đối với Chánh Đẳng, Chánh Giác chỉ một mình không hai, tự dùng sức đại tinh tấn dũng mãnh, thâm tâm nhiếp thọ, không mượn duyên khác hay nhờ người khác khai thị, mà tự thành tựu lực dụng to lớn, có khả năng mặc áo giáp kiên cố như vậy, hay đạt được những gì khó được của hữu tình, những người mới phát tâm trụ Bồ Tát thừa chưa được nay được.
Lại nữa, Bồ tat có khả năng thí tất cả những gì khó thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, thắng tuệ cũng lại như vậy.
Lại nữa, người mới phát tâm không thể kiến lâp Ba la mật đa, nhưng Bồ Tát thì lại có khả năng kiến lập các Ba la mật đa.
Nói tóm lại, cho đến giác ngộ rộng lớn, gieo trồng căn lành cũng không thể sánh kịp. Bồ Tát đối với pháp hạnh này chỉ một mình không hai, đến bồ đề tràng, ngồi tòa Kim cang, nhiếp phục ma lực, trong một sát na tương ưng tuệ thù thắng, đối với quả Chánh Đẳng, Chánh Giác bình đẳng quyết định không còn thoái chuyển.
Này Xá Lợi Tử! Đây là Đại Bồ Tát thực hành tuệ thù thắng bala mật đa nên đạt được Thánh Đạo thiện xảo cua Bồ Tát.
Sao gọi là duyên sinh thiện xảo của Bồ Tát?
Bồ Tát này trong ngày đêm, ngồi yên một mình phát khởi thiện tầm từ suy nghĩ: Uẩn do đâu mà khởi và nó sẽ nhờ lực nào?
Do tác ý không đúng lý như vậy nên phát sinh vô minh, vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lão tử, ưu bi khổ não và tùy phiền não phương tiện tập khởi.
Lại nữa, do pháp như vậy, không thể không tạo tác và không chủ tể. Đó là nhân thiện, nhân ác, nhân vô ký, tất cả duyên sinh. Lại các hữu tình đều có phần lượng, là căn nhân tăng thượng, căn nhân, nghệp nhân, quả nhân, có vô biên tế các nhân rốt ráo, tất cả tập hợp phát sinh thảy đều biết rõ. Đây gọi là duyên sinh thiện xảo.
Lại nữa, uẩn diệt.
Sao gọi là diệt?
Nếu diệt tác ý đúng lý thì vô minh diệt, vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sinh diệt, sinh diệt thì lão tử ưu bi khổ não diệt. Từ đó đạt được trí như vậy.
Lại nữa, duyên sinh thiện xảo là tất cả các pháp đều lệ thuộc vào sự hòa hợp của nhân duyên, tức là có khả năng gia trì không ngã, không nhân, không chúng sinh, không thọ giả. Bồ Tát không chấp trước vào các tướng ấy, nhưng đối với duyên sinh này có khả năng kiến lập tất cả Pháp Phật và tướng bồ đề. Đối với hữu tận diệt nên quán sát khéo léo, đối với vô tận diệt nhiếp hóa hữu tình.
Này Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát thực hành tuệ thù thắng Ba la mật đa nên đạt được duyên sinh thiện xảo như vậy.
Sao gọi là tất cả pháp thiện xảo của Bồ Tát?
Tất cả pháp là hữu vi, vô vi, các Bồ Tát đối với hữu vi vô vi thiện xảo nên biết như vậy.
Hữu vi thiện xảo nghĩa là nghiệp thiện của thân, miệng, ý, quán sát hữu vi bồ đề hướng đến nhất thiết trí. Đó gọi là hữu vi thiện xảo.
Lại nữa, hữu vi thiện xảo là tích tập bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, năm pháp Ba la mật đa. Nếu lại đối với tuệ thù thắng Ba la mật đa được trí vô vi, đối với năm Ba la mật đa cũng không xả bỏ, siêng năng mong cầu tất cả Ba la mật đa, tin hiểu bồ đề vô lậu, hướng đến nhất thiết trí. Đó gọi là vô vi thiện xảo.
Lại nữa, hữu vi thiện xảo nghĩa là hữu tình thực hành bốn nhiếp sự không bị đối khiển, tuy là nhiếp thọ hữu tình, nhưng kỳ thật là nhiếp thọ vô ngã, vô nhân. Đối với nhiếp sự thiện xảo không có dính mắc, tin hiểu bồ đề vô vi, hướng đến nhất thiết trí. Đó gọi là vô vi thiện xảo.
Lại nữa, hữu vi thiện xảo nghĩa là đoạn các hành nghiệp trói buộc không thôi, tức là đoạn luân hồi và phiền não trói buộc, đối với tướng bồ đề có sự nắm giữ trói buộc liên tục, phần nhỏ vi tế không có kết nghiệp. Đây gọi là hữu vi thiện xảo.
Lại nữa, đối với không, vô tướng, vô nguyện dùng trí quán sát hiểu rõ nhân duyên các pháp, tu hạnh bồ đề nhưng không chứng Niết Bàn. Đây gọi là vô vi thiện xảo.
Lại nữa, tuy Bồ Tát sống trong ba cõi nhưng không bị phiền não trong ba cõi trói buộc. Đây gọi là hữu vi thiện xảo. Nếu dùng trí hiểu rõ thoát khỏi ba cõi, nhưng không lìa ba cõi, cũng không đọa lạc. Đây gọi là vô vi thiện xảo. Nếu nói tất cả pháp thiện xảo thì nhất thiết trí đều là khái niệm. Nếu đối với nhất thiết trí thông đạt viên mãn không bị tổn giảm. Đây là thắng tuệ thiện xảo, tức là tất cả pháp thiện xảo.
Này Xá Lợi Tử! Các Đại Bồ Tát an trụ tuệ thù thắng Ba la mật đa, đối với tuệ thù thắng đạt được mười thiện xảo như vậy.
Này Xá Lợi Tử! Sao gọi là tuệ thù thắng?
Sao gọi là Ba la mật đa?
Tuệ thù thắng là quán sát biết rõ pháp thiện bất thiện, đó gọi là tuệ thù thắng. Phân biệt vô lượng pháp môn như thật, đó gọi là tuệ thù thắng. Thông đạt các kiến được pháp vô ngại, đó gọi là tuệ thù thắng. An trú tất cả chánh nguyện, nhưng kỳ thật xả các nguyện cầu, đó gọi là tuệ thù thắng. Lìa các phiền não, được mọi khinh an, đó gọi là tuệ thù thắng.
Cắt đứt mọi phan duyên được pháp vui lớn, đó gọi là tuệ thù thắng. Tùy nghĩa quán sát, đó gọi là tuệ thù thắng. Được an trụ pháp phần bồ đề, đó là tuệ thù thắng. Biết rõ như thật về pháp tướng vô tướng, đó là tuệ thù thắng. Dùng trí quán chiếu biết rõ thể tánh của các pháp, đó là tuệ thù thắng.
Thoát khỏi mọi hiểm nạn không bị chướng ngại, đó là tuệ thù thắng. Nhiếp thọ chánh đạt, đó là tuệ thù thắng. Đối với các thiện pháp khiến được thanh tịnh, đó là tuệ thù thắng. Cắt đứt tập nghiệp phiền não, đó là tuệ thù thắng. Do trước tu chứng tất cả thiện pháp, đó là tuệ thù thắng.
Đối với tự nhiên sinh… khởi lên giác ngộ dẫn dắt hữu tình được xa lìa, đó là tuệ thù thắng. Không đắm trước ba cõi, đó là tuệ thù thắng. Đối với các Thánh nguyện liên tục không gián đoạn, đó là tuệ thù thắng. Đem các vô tướng phục trừ biến kế, đối trị thanh tịnh, đó là tuệ thù thắng.
Lìa mọi tối tăm ngu si, thành tựu tất cả hành địa tương ưng, đó là tuệ thù thắng. Đối với nhất thiết trí trí, tu đạo quang minh, đó là tuệ thù thắng. Làm con mắt sáng đối với vô minh tối tăm, đó là tuệ thù thắng. Tin hiểu nhãn căn vô lậu như vậy, đó là tuệ thù thắng. Đối với cảnh đối tượng của mắt, vượt hơn mọi nghĩa thù thắng, đó là tuệ thù thắng.
Xuất ly chân thật điều phục không lay động, đó là tuệ thù thắng. Trí tuệ chiếu sáng không có cùng tận, đó là tuệ thù thắng. Biến nhất thiết xứ không có trái nhau, đó là tuệ thù thắng. Đối với đạo giải thoát luôn luôn cao sáng, đó là tuệ thù thắng. Lìa các phiền não và pháp chướng ngại, đều không chung nhau, đó là tuệ thù thắng.
Này Xá Lợi Tử! Các Đại Bồ Tát dùng tuệ thù thắng như vậy nên có thể hiểu rõ tâm hướng đến của tất cả hữu tình, nghiệp hạnh sai khác, các môn trần lao. Cho đến dùng trí tuệ như vậy đối với chấp trì có thể biết rõ hết tất cả Thanh Văn, Bích Chi Phật, Tam Miệu Tam Phật Đà, đó là tuệ thù thắng. Các Bồ Tát đối với cú nghĩa này tất cả nên học.
Lại nữa, này Xá Lợi Tử! Ba la mật đa nghĩa là tuệ thù thắng, biết rõ tất cả pháp thiện bất thiện, đó là Ba la mật đa. Nói tóm lại, cho đến đối với cú nghĩa, nghĩa này tất cả nên học, đó là Ba la mật đa.
Lại nữa, nên viên mãn hạnh thù thắng của Bồ Tát, đó là Ba la mật đa. Viên mãn nhất thiết trí trí, đó là Ba la mật đa. Không đắm trước vào pháp hữu vi vô vi, đó là Ba la mật đa. Vì khiến hữu tình giác ngộ lỗi lầm của luân hồi, đó là Ba la mật đa. Có khả năng chỉ rõ pháp tạng vô tận, đó là Ba la mật đa.
Lìa mọi phan duyên, giải thoát viên mãn, đó là Ba la mật đa. Đối với bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định thắng tuệ, khiến hết tất cả đều được giác ngộ, đó là Ba la mật đa. Thiện xảo rốt ráo đối với cảnh giới hữu tình, dẫn dắt tất cả, vì khiến viên mãn pháp nhẫn vô sinh, đạt đến địa không thoái, đó là Ba la mật đa.
Viên mãn Cõi Phật, hóa độ hữu tình đến bồ đề tràng, trừ các ma oán, viên mãn tất cả Pháp Phật, đó là Ba la mật đa. Lại có khả năng kiến lập chánh pháp Đại Thừa Bồ Tát tạng, đó là Ba la mật đa.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh đại Phật đảnh Thủ Lăng Nghiêm - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Kim Quang Minh Hợp Bộ - Phẩm Tám - Phẩm Không
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Bảo Vân - Phẩm Bảy - Phẩm Bảo Tích - Tập Bốn
Phật Thuyết Kinh Diệt Trừ Tối Tăm Trong Mười Phương
Phật Thuyết Kinh Ngũ Khủng Bố Thế
Phật Thuyết Kinh Trang Nghiêm Tâm Bồ đề
Phật Thuyết Kinh Niệm Phật Ba La Mật - Phẩm Bốn - Phẩm Xưng Tán Danh Hiệu