Phật Thuyết Kinh đại Thừa Lý Thú Lục Ba La Mật đa - Phẩm Mười - Phẩm Bát Nhã Ba La Mật đa - Tập Hai

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Đề Vân Bát Nhã, Đời Đường

PHẬT THUYẾT KINH

ĐẠI THỪA LÝ THÚ LỤC BA LA MẬT ĐA

Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư

Đề Vân Bát Nhã, Đời Đường  

PHẨM MƯỜI

PHẨM BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA  

TẬP HAI  

Tất cả chúng sinh vì chấp ngã, chấp tướng mà có năm sợ hãi:

1. Sợ không đủ sinh sống, nghĩa là thường cất chứa của cải, sợ mình không có để sống.

2. Sợ đường ác nghĩa là tạo ra nghiệp ác nên sợ mình đọa trong ba đường ác.

3. Sợ chết nghĩa là thương tiếc thân mạng.

4. Sợ tiếng xấu nghĩa là luôn làm việc ác để che lấp, sợ người nghe biết.

5. Sợ oai đức đại chúng nghĩa là trong đại chúng có nói ra lời gì cũng đều sợ hãi.

Đại Bồ Tát dùng trí tuệ quán sát đầy đủ, chứng được nhị không, có thể làm lợi ích cho mình và người thì không sợ không đủ sinh sống. Đoạn trừ tà hạnh, giữ trọn vẹn giới, chắc chắn đạt đến Niết Bàn thì không sợ đọa vào đường ác. Nhập sâu vào lý duyên khởi, hiểu rõ nó vốn không sinh thì không sợ chết.

Trụ trong lý vô tướng, thân tâm tịch tĩnh, không có tướng mình và người thì không sợ tiếng xấu.

Thành tựu bốn Biện tài vô ngại nhiệm mầu thì ở trong chúng không sợ, giống như Sư Tử chúa, cho nên gọi là không sợ đại chúng.

Này Từ Thị! Căn tánh của tất cả chúng sinh đều sai biệt. Ai xan tham thì dạy họ bố thí, người sân giận thì dạy họ từ bi nhẫn nhục. Người ngã mạn dạy họ khiêm nhường, người ngu si được trí tuệ. Khai mở Niết Bàn, làm hiển rõ vô lượng công đức của tướng chân như.

Tất cả đều từ bát nhã Ba la mật đa mà sinh ra. Tất cả Chư Phật và các vị Bồ Tát, Trời, Rồng, tám bộ chúng đều khen ngợi tôn trọng, cung kính giống như cha mẹ. Ví như mẹ hiền chỉ có một đứa con, nuôi dưởng dạy dỗ nó dần dần trưởng thành, mong được nên danh.

Bồ Tát cũng vậy, yêu thương hữu tình giống như con một, lấy trí tuệ cam lồ làm pháp thức ăn, lấy năm độ làm đại lương dược, lấy mười lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp bất cộng, các công đức vi diệu để trang nghiêm pháp thân, thành tựu ngôi vị Pháp Vương Vô Thượng.

Này Từ Thị! Có mười việc làm chướng ngại đèn trí, che lấp làm cho ánh sáng không hiển hiện được, làm tăng trưởng sự tối tăm, không hiểu biết gì cả:

1. Biếng nhác: Đối với sự nghiệp ở đời đều không thành tựu, thì làm sao có thể tu hành điều thiện vi diệu của đạo xuất thế!

2. Gần bạn ác thì tạo ra nghiệp ác, làm tăng trưởng vô minh.

3. Chìm đắm trong ngủ nghỉ, làm cho thân tâm hôn mê, không thể tu tập vô thượng bồ đề.

4. Nghe đại thừa liền quên mất.

5. Thích học tập tất cả kỹ nghệ ở thế gian, không biết nó như huyễn mà lại chấp trước.

6. Bị ngã mạn che lấp, dù gặp bạn lành nhưng không học hỏi chánh pháp vô thượng.

7. Không liễu ngộ giáo lý đại thừa vi diệu nhiệm mầu, lại ngã mạn tự cao thoái lui.

8. Xấu hổ về sự ngu muội của mình nên không gần gũi người có trí.

9. Bắt chước dị đoan, dối trá nói là thấy biết, nếu bị luận hỏi thì bỏ chạy.

10. Không tin thích tối thượng thừa, giả sử có nghe thì lại hiểu bằng lăng kính tà kiến.

Do mười việc này mà làm chướng ngại đại thừa. Do không nghe chánh pháp nên bị đắm chìm trong sinh tử.

Mười việc này có mười pháp thù thắng để cho người ngộ nhập vào vô thượng bồ đề:

1. Tinh tấn siêng năng, thích tu tập thiền định.

2. Gần gũi bạn lành nghe chánh pháp.

3. Giảm bớt ngủ nghỉ, luôn luôn tự tỉnh thức.

4. Nghe pháp đại thừa không bao giờ quên.

5. Làm theo sự nghiệp ở đời nhưng luôn quán nó như huyễn, không chấp trước.

6. Không giấu điều gì, giải nghi ngờ cho đại chúng.

7. Không nên chê mình, phải siêng năng tu hành.

8. Thích thiết lập đàn bố thí.

9. Luôn khiêm nhường, không lừa gạt chúng sinh.

10. Không nhờ thầy mà nhập sâu vào tuệ Phật.

Đại Bồ Tát nhờ mười việc này mà đầy đủ viên mãn sáu pháp Ba la mật đa, thành tựu pháp thân thanh tịnh giải thoát.

Này Đại Bồ Tát Từ Thị! Bát nhã Ba la mật đa này không tương ưng với mười sáu pháp:

1. Không tương ưng với mười hai nhân duyên, nghĩa là từ vô minh cho đến Lão Tử.

2. Không tương ưng với vô minh diệt cho đến sinh tử diệt. Vì Đại Bồ Tát lìa tâm phân biệt, không có hai tướng.

3. Không tương ưng với thân kiến, biên kiến, cho đến sáu mươi hai kiến.

4. Không tương ưng với tám loại gió thế gian, đó là: Lợi dưỡng, khen ngợi, chê bai, khổ, vui, suy, hao, chế giễu.

5. Không tương ưng với tùy phiền não: Phẫn, hận…

6. Không tương ưng với ngã mạn, tăng thượng mạn…

7. Không tương ưng với căn bản phiền não: Tham, sân, si…

8. Không tương ưng với ma phiền não, ma chết…

9. Không tương ưng với tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sinh, tướng thọ giả, người làm, người nhận, nghiệp chướng, báo chướng, phiền não chướng.

10. Không tương ưng với vọng niệm phân biệt của thấy nghe, hay biết.

11. Không tương ưng với bốn pháp điên đảo: Vô thường cho là thường, thường cho là vô thường. Không vui cho là vui, vui cho là không vui. Vô ngã nói là ngã, ngã cho là vô ngã. Bất tịnh cho là tịnh, tịnh cho là bất tịnh. Do vọng tưởng nên gọi là pháp điên đảo. Do tâm hành của hữu tình như thế nên dẫn đến cửa trần lao.

12. Không tương ưng với xan tham, phạm giới, sân giận, biếng nhác, tán loạn, ngu si, và cũng không tương ưng với bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ mà có tướng.

13. Không tương ưng với các pháp bất thiện: Tánh tội, già tội, hữu lậu, hữu vi, không tương ưng với sự phân biệt về pháp thiện của thế gian, xuất thế gian, vô lậu và vô vi.

14. Không tương ưng với hai mươi hai căn, đó là: Không tương ưng với mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Không tương ưng với khổ, lạc, ưu, hỷ, xả. Không ương ưng với nam căn, nữ căn, ý căn, mạng căn. Không ương ưng với tín… năm căn, và không tương ưng với ba căn vô lậu.

15. Không tương ưng với mỗi loại hữu tình trong năm thú ba cõi. Cũng không tương ưng với sự phân biệt đại thừa, Tiểu thừa của Phật, Pháp, Tăng Bảo.

16. Không tương ưng với sự phân biệt của tâm ý, như: Không phân biệt chân đế, tục đế. Hữu vi, vô vi, hữu trí, vô trí. Có thức, không thức. Tác ý, không tác ý. Tánh hữu thể, tánh vô thể. Hữu tướng, vô tướng.

Từ Thị nên biết! bát nhã Ba la mật đa không nhiễm, không vướng mắc, không có các phân biệt. Nó bình đẳng, thanh tịnh, là một tướng, một vị, không tương ưng với tất cả pháp sai biệt như vậy.

Này Từ Thị! Với phương tiện thiện xảo, Đại Bồ Tát khi tu hành bát nhã Ba la mật đa thâm sâu thì phải trụ vào chỉ và quán, thân trụ trong tịch tĩnh, hiểu rõ nhân duyên các pháp như huyễn như hóa, thuận theo thắng nghĩa đế, lìa hữu, lìa vô, không thường, không đoạn, đều tùy thuận với nhân quả, không có tướng ngã, tướng nhân, là chân thật bất động, không mất oai nghi.

Trụ vào ba cửa giải thoát nhưng không chấp đã chứng, không động không tịnh, đó là thiền của Như Lai.

An trú thần thông, thâm nhập sâu vào thực tế, không ở mãi trong sinh tử, không nhập vào Niết Bàn, không chấm dứt hữu vi, không trụ trong vô vi. Mặc dù quán vô tướng nhưng không xả bỏ đại bi. Mặc dù ở trong ba cõi nhưng luôn xuất ly. Tuy biết đúng về vô nhiễm nhưng không tu chứng. Tuy xa lìa các hý luận nhưng thích bàn luận về chánh pháp.

Này Từ Thị! Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa nên gần gũi bạn lành, nghe chánh pháp, đầy đủ tám mươi bốn loại tâm tối thượng thì mới có thể phát sinh bát nhã Ba la mật đa thù thắng vi diệu.

Nghĩa là trụ vào tướng chân thật, tướng rất vi diệu, tướng tương ưng với bát nhã, tướng bạn lành, tướng lìa kiêu mạn, tướng cung kính, tướng đi nhiễu bên phải, tướng vô lượng, tướng lời nói hoàn hảo, tướng chí thành, tướng tác ý hoàn hảo, tướng không loạn, tướng vô định, tướng tốt đẹp quý báu.

Tướng thuốc hay, tướng trừ bệnh, tướng pháp khí, tướng chỉ dẫn, tướng nhập trí tuệ, tướng nghe pháp, tướng không chán, tướng tăng trưởng xả, tướng khéo điều phục voi ngựa, tướng kính thờ bậc đa văn, tướng thích nghe pháp vi diệu, tướng quán thân tịch diệt, tướng thanh tịnh vui thích.

Tướng nghe pháp không mệt mỏi, tướng nghe nghĩa, tướng nghe pháp, tướng lời nói đi đôi với việc làm, tướng nói pháp cho người, tướng nghe những điều chưa nghe, tướng nghe thần thông, tướng không tìm cầu thừa khác, tướng thích nghe bát nhã, tướng thích nghe Bồ Tát tạng.

Tướng thích nghe phương tiện quyền xảo, tướng bốn nhiếp pháp, tướng nghe phạm hạnh, tướng niệm chánh định, tướng hay sinh thiện xảo vô sinh, tướng tâm đại từ bi, tướng duyên khởi, tướng vô thường, tướng khổ, tướng không, tướng vô ngã, tướng bất tịnh, tướng tịch tĩnh.

Tướng không, tướng vô tướng, tướng vô nguyện, tướng không có hạnh bất thiện, tướng thắng nghĩa đế, tướng không hư hoại, tướng tự tại, tướng hộ tâm mình, tướng không bỏ tinh tấn, tướng tư duy pháp vi diệu, tướng đối trị phiền não, tướng tôn trọng chánh pháp, tướng đối trị tà kiến.

Tướng đạt được Thánh tài, tướng trừ bỏ nghĩa khổ, tướng người trí khen ngợi, tướng người trí rất vui, tướng những điều người trí ưa thích, tướng tôn trọng bậc hiền thiện, tướng thấy bốn Đế, tướng quán lỗi lầm của uẩn, tướng tai hoạn của hữu vi, tướng căn cứ vào pháp, tướng căn cứ vào nghĩa.

Tướng căn cứ vào trí, tướng căn cứ vào Kinh liễu nghĩa, tướng căn cứ vào Kinh bất liễu nghĩa, tướng không tạo các điều ác, tướng tự mình làm lợi ích, tướng làm lợi ích cho người, tướng tạo thiện tốt đẹp, tướng không phiền não, tướng thắng hạnh, tướng đạt tất cả pháp môn của Chư Phật.

Từ Thị nên biết! Người nghe pháp đầy đủ tâm thù thắng như vậy thì có thể nghe bát nhã Ba la mật đa thâm sâu, biết tất cả pháp không có ngã, không có người, xưa nay thanh tịnh. Sinh tử và Niết bàn đều bình đẳng không hai.

Lại nữa, Đại Bồ Tát quán năm căn: Mắt,… các thọ khổ, vui… ý căn, mạng căn hay khởi lên phiền não làm căn bản cho sinh tử. Tín,… năm căn và ba căn vô lậu hay xả bỏ phiền não. Đó là nhân Niết Bàn. Biết tánh phiền não từ xưa đến nay không sinh không diệt, tánh tướng thường trụ. Người nào tu tập như vậy gọi là bát nhã Ba la mật đa.

Này Từ Thị! Đại Bồ Tát đã tu thắng hạnh tương ứng và không tương ứng với trí tuệ, không có phân biệt, hai trí đều bình đẳng, không xả bỏ chúng sinh mà luôn có lòng từ bi, che chở tất cả được thanh tịnh bất động. Ai tu tập như vậy gọi là bát nhã Ba la mật đa.

Đức Phật dạy Từ Thị: Câu nghĩa của bát nhã Ba la mật đa không thể nghĩ bàn. Đó là câu tương ưng, câu như lý, câu như lượng, câu lời Phật, câu hiểu rõ nhân duyên, câu không chướng ngại, câu không diệt, câu đại xả, câu bất động, câu tất cả bất động.

Câu không y chỉ, câu bình đẳng, câu không khó, câu không cao thấp, câu thật tế, câu không biến đổi, câu không chấp trước, câu không trụ, câu không chỗ trụ, câu đối trị, câu tịch tĩnh, câu rất tịch tĩnh, câu khắp nơi tịch tĩnh, câu không hý luận, câu vô khởi.

Câu tức chân, câu không khiếm khuyết, câu không thừa, câu không giới hạn, câu không đối trị, câu tối thắng, câu chân thật, câu như như, câu tuyệt ngôn, câu không phân biệt, câu không bỉ thử, câu ba đời bình đẳng, câu không ba đời, câu không trụ vào năm uẩn.

Câu không trụ vào sáu giới, câu không trụ vào mười hai xứ, câu không trụ vào mười tám giới, câu căn cứ vào pháp, câu căn cứ vào nghĩa, câu căn cứ vào trí, câu căn cứ vào liễu nghĩa.

Với câu nghĩa như vậy tức là Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa không thể nghĩ bàn. Vì lìa ngôn thuyết, vì chân thắng nghĩa, vì không thể nghĩ bàn, vì không ví dụ, không so sánh, vì vô thượng, vì tự lợi và lợi tha, vì rất hy hữu, chỉ có Phật với Phật mới có thể chứng tri, ngoài ra không ai biết được.

Vì sao?

Vì bát nhã Ba la mật đa không có tánh, không có tướng, không so sánh, không ví dụ, chỉ có Phật Như Lai mới có thể biết tận.

Này Từ Thị! Bát nhã Ba la mật đa này chẳng phải uẩn xứ giới, không chỗ nương tựa, không sinh không diệt, không trong không ngoài, không ở chặng giữa, cho nên gọi là bát nhã Ba la mật đa không thể nghĩ bàn.

Nghe bát nhã Ba la mật đa này, Bồ Tát Từ Thị rất vui mừng, sung sướng nói kệ khen:

Thế Tôn Đại Hùng trí Vô thượng

Mười lực, vô úy, chân giải thoát

Quảng Đại Thần thông không giới hạn

Nào ai có thể so lường được.

Quá khứ gần gũi vô lượng Phật

Đạt được trí vi diệu sâu xa

Vô số kiếp tu hạnh khó hành

Do đó thành Bậc Điều Ngự Sư.

Phật chứng tự nhiên nhất thiết trí

Trụ trong tịch tĩnh khó nghĩ lường

Chỉ Phật Như Lai tự chứng biết

Hiện trong vô số cảnh giới Phật.

Tánh pháp chân thường lìa hai bên

Vô vi tịch tĩnh thoát ba cõi

Khổ nghiệp phiền não đều diệt trừ,

Pháp thân thanh tịnh chân giải thoát

Đạo Tràng Bồ Đề thành Chánh Giác

Chỉ có Chư Phật mới chứng tri.

Thanh tịnh y nhiên, không đi, đến

Không tướng, không làm, không nói năng

Niết Bàn không sánh, không ví dụ

Phàm phu Nhị Thừa không thể lường,

Đẳng giác Bồ Tát không thể biết,

Riêng Phật Thế Tôn mới hiểu rõ.

Các chúng Thanh Văn trong hội Phật

Chứng đắc tự lợi, Như Lai khen,

Hết sinh hữu lậu, thân sau cùng

Họ cũng không biết cảnh giới Phật.

Tất cả Bích Chi Phật lợi trí

Nhiều khắp mười phương như lúa mè

Cùng tư duy trăm ngàn vạn kiếp

Không sao biết được trí tuệ Phật.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần