Phật Thuyết Kinh đại Thừa Trí ấn - Phần Năm
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trí Cát Tường
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI THỪA TRÍ ẤN
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Trí Cát Tường
PHẦN NĂM
Khi ấy có Luân Vương
Tên gọi là Phước Thượng
Thống lãnh Diêm Phù Đề
Vùng đất Vua cai quản
Bảy trăm ngàn do tuần
Làm Vua bốn thiên hạ
Phi tần và thể nữ
Số ấy sáu câu chi
Và có ngàn Vương Tử
Các tướng đều đầy đủ
Cõi ấy tên Quang Tuệ
Nhân dân đều an lạc
Có tám trăm câu chi
Thành và vườn Lộc uyển
Nhiều hoa trái tốt nhất
Mọi thứ đều tốt đẹp
Ma ni báu trang nghiêm
Như quang cảnh các Trời.
Một hôm, Chuyển Luân Vương
Trong giấc ngủ, mộng thấy
Có Đức Phật xuất thế
Phật hiệu là Kế Tràng.
Trong mộng vừa thức giấc
Tìm vị tướng lãnh binh
Quan quân và nhân dân
Trăm sáu mươi câu chi
Đều đi đến chỗ Phật
Để nghe Tam Ma Địa.
Lúc Vua nghe Kinh ấy
Pháp sâu xa chân thật
Tâm rất là vui mừng
Liền đem cả cõi nước
Dâng hết cho Đức Phật
Để làm vật cúng dường.
Khắp tất cả cõi nước
Dùng chiên đàn thượng diệu
Xây dựng các Tinh Xá
Vườn cây đều đầy đủ
Vàng bạc các châu báu
Nhiều thứ để trang trí.
Cúng dường Phật như thế
Trải qua tám vạn năm
An trụ trong Phật Pháp
Hay xa lìa việc ác
Với tình và chẳng tình
Thường khởi tu thắng thiện
Xả bỏ những yêu thích
Tận đáy lòng không dục
Chỉ dùng lời chân thật
Hóa, lợi ích quyến thuộc.
Cho đến một hôm nọ
Thiết lễ để cúng dường
Số ấy không ngằn mé
Cúng dường Phật như vậy
Vì cầu Tam Ma Địa
Được gọi sinh nhà Phật
Là chân thật hơn hết
Pháp sâu xa nhiệm mầu
Chẳng trụ tướng năng cầu
Chẳng vọng chỗ tâm được
Là Tam Ma Địa này
Tên Như Lai Trí ấn.
Lúc Vua nghe pháp này
Bỏ nước mà xuất gia
Trải qua tám vạn năm
Luôn tu Tam Ma Địa
Sớm tối, ngày qua ngày
Chưa từng có lười biếng.
Suốt trong thời gian ấy
Phật nói pháp khai ngộ
Kế Tràng Như Lai đó
Sau vào Bát Niết Bàn
Vua cho xây dựng tháp
Sáu mươi bốn câu chi
Mỗi một tháp báu ấy
Có năm trăm tầng mái
Dùng bảy báu trang nghiêm
Và nhiều thứ kỹ nhạc
Đốt trăm ngàn hương đèn
Ánh sáng soi rực rỡ
Đủ những thứ cúng dường
Trang nghiêm đầy đủ khắp
Tính tổng cộng số ấy
Bảy vạn ba ngàn năm.
Lại vì các chúng sinh
Nói Tam Ma Địa này
Pháp thù thắng vô tướng
Tâm kia không chỗ trụ.
Nếu vì người cung kính
Người cúng dường ca ngợi
Tâm không sinh vui mừng
Xa lìa các tướng có
Và dùng các chú thuật
Thường hộ trì chánh pháp
Trải tám ngàn câu chi
Bảy mươi na dữu đa
An trụ pháp Như Lai
Vắng lặng thường sướng vui
Với tất cả nơi học
Hoàn toàn đều đầy đủ
Thành tựu pháp Bồ Đề.
Ba nghiệp đều thanh tịnh
Với pháp đã thọ học
Buộc tâm không gián đoạn
Đối với pháp chưa học
Gắng siêng năng tu tập
Dùng sức đại trí tuệ
Và thắng giải ấn trì
Tư duy thường ghi nhớ
Không có điều quên mất
Xa lìa các hý luận
Cho đến các tưởng khác
Chẳng bằng trong đời ác
Dối hành hạnh Bồ Đề
Tuy giáo hóa hữu tình
Tham cầu ở danh dự
Vì lợi dưỡng nói pháp
An trú những tướng có
Nói tất cả đều không
Thật chẳng rõ tánh không
Đó gọi là dính mắc.
Tâm ngộ khác với lời
Mạn tà không thanh tịnh
Và thực hành phi pháp
Miệng chỉ giỏi nói không
Tâm bị tướng trói buộc
Nếu tu hành như thế
Hoàn toàn không được gì.
Luân vương Phươc Thượng ấy
Tức Phật Vô Lượng Thọ
Nay ở cõi An lạc
Ngàn Vương Tử thuở ấy
Ở trong hiền kiếp này
Là ngàn Phật Thế Tôn
Có trong đại hội này.
Trước ta nghe pháp ấy
Xuất gia cùng thời Vua
Làm một vị Tỳ Kheo
Nhớ lại thuở xa xưa
Câu chi na dữu đa
Tất cả trong Phật pháp
Xuất gia nghe chánh pháp
Nghe, đều hay hiểu rõ
Do vậy vô lượng kiếp
Thực hành mọi phương tiện
Với các pháp cúng dường
Không đắm tướng bồ đề
An trụ trong chân thật
Được gặp Phật Đăng Minh
Phước trí đều như nhau
Ngài thọ ký cho ta
Đời vị lai thành Phật
Hiệu là Thích Ca Văn.
Bấy giờ, trong hội, có phu nhân của Vua Tần Bà Sa, tên là Hiền Cát Tường cũng gọi là Câu chi Kim Quang, mẫu thân của Vua A Xà Thế. Từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi mình sát đất, đảnh lễ dưới chân Như Lai.
Đảnh lễ như thế xong, quỳ hai gối xuống đất, chắp tay, diện mạo vui vẻ, dùng lời lẽ dịu dàng, ca ngợi công đức của Phật. Lại dùng trăm ngàn thứ báu vô giá, dâng lên, cúng dường Đức Thế Tôn. Và dùng năm trăm hoa bảy báu tung lên hư không, hoa ấy trở thành lọng mây hoa, che khắp cả chúng hội.
Khi Hiền Cát Tường làm những việc cúng dường như thế xong, bà bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Con nghĩ ở vị lai vào đời ác trược, những loại hữu tình lòng tin và các căn mỏng manh, phiền não lại thêm nhiều. Con mong cho họ tin hiểu, thọ trì pháp môn Tam Ma Địa tối thắng này.
Nếu thấy có người ghi chép, thọ trì, lắng nghe, đọc tụng, vì người khác giảng nói, mở bày hướng dẫn hóa độ, lần lượt lưu truyền khắp nơi, khiến cho không đoạn dứt, khiến cho mọi người nghe thấy đều sinh tâm tin hiểu, siêng năng tu tập, người như thế gọi là pháp khí.
Thì đối với người thọ trì ấy, con sẽ vui mừng, khen ngợi gần gũi, hầu hạ, cung cấp những thứ cần dùng như: Thức ăn, nước uống, y phục, giường chiếu, thuốc thang, các việc cúng dường đầy đủ không thiếu thốn.
Lại dùng pháp Đại Thừa sâu xa, làm cho họ ngộ nhập, khiến họ trụ nơi dòng giống Đại Thừa, mau được thành thục pháp Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Không lừa dối phân biệt, là không hay chẳng phải không, biết rõ các pháp, lìa sự dính mắc về ngôn ngữ, tùy ngộ tùy học, không sinh hý luận, vì giữ gìn chánh pháp mà đối với thân mạng, còn không ham tiếc, huống nữa là những vật dụng, của cải ở thế gian, đó chỉ là thứ tăng thêm phiền não, sinh tử.
chỉ nên tu học pháp thù thắng Tam Ma Địa như thế.
Thưa xong, phu nhân Hiền Cát Tường lui ngồi sang một bên.
Nghe nói như vậy, tám ngàn thể nữ hậu cung của Vua Tần Bà Sa đều phát khởi tâm Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác và nguyện ưa thích Đại Thừa vô thượng, muốn học tập và an trụ vào môn Tam Ma Địa thù thắng này. Tất cả đều từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay, cung kính, đảnh lễ sát đất.
Rồi bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Ở vị lai trong đời mạt pháp, chúng con đều sẽ thọ trì pháp sâu xa nhiệm mầu tròn đầy này và nguyện bảo vệ cúng dường người thọ trì nó. Khi thấy việc ấy rồi, sáu mươi vạn chúng Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di ở nước Ma Kiệt, đều vui vẻ cùng pháp tâm Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.
Đối với Trí ấn Tam Ma Địa này, hết lòng vui theo và nguyện như vậy: Ở vị lai, trong đời ác trược, chúng con cũng nguyện bảo vệ và gìn giữ trọn vẹn đối với pháp mầu này.
Đức Thế Tôn biết được tâm nguyện miệng thề của những Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di và phu nhân Hiền Cát Tường Câu chi Kim Quang, cùng với tám ngàn thể nữ hậu cung… của nước Ma Kiệt Đà.
Họ đã nguyện, tin hiểu, thọ trì pháp mầu như thế thì sẽ luôn luôn tu tập, không có gián đoạn, biết quả vị Chư Phật từ pháp này sinh ra. Đức Thế Tôn liền mỉm cười, bộc lộ sự hoan hỷ. Vì nhân duyên cười ấy, có trăm ngàn thứ tia sáng thật tốt đẹp từ miệng Đức Phật phát ra.
Những tia sáng ấy, có màu xanh vàng, đỏ, trắng, pha chi ca. Những thứ sắc tướng ấy lan tỏa khắp Thế Giới. Các chúng sinh trong những Thế Giới ấy, thấy ánh sáng này, đều lìa sự sợ hãi, dẹp trừ được tất cả phiền não ma oán. Ánh sáng ấy, trên chiếu đến Trời Hữu Đảnh, những nơi mà ánh sáng của mặt trời, mặt trăng không đến được, thì ánh sáng ấy đều chiếu đến thông suố.
Dưới chiếu đến tất cả các địa ngục lớn và các nẻo ác, làm cho những sự khổ não đều dừng dứt, trừ hết những sự dơ xấu, đạt được sự trong sạch. Ánh sáng ấy, quay trở lại, theo chiều phải, xoay quanh Đức Phật ngàn vòng, rồi nhập vào đỉnh của Thế Tôn.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Con đường Tu Hành - Phẩm Hai Mươi Mốt - Hành Không - Tập Ba
Phật Thuyết Kinh đại Phương Quảng Như Lai Bí Mật Tạng - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Trí ấn - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Lục độ Tập - Chương Bốn - Tinh Tấn độ Vô Cực - Kinh Số Sáu Mươi Hai
Phật Thuyết Kinh Niệm Phật Ba La Mật - Phẩm Sáu - Phẩm Năng Lực Bất Tư Nghị Của Danh Hiệu Phật