Phật Thuyết Kinh Nại Nữ Kỳ Vực Nhân Duyên - Phần Một
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán
PHẬT THUYẾT KINH
NẠI NỮ KỲ VỰC NHÂN DUYÊN
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
An Thế Cao, Đời Hậu Hán
PHẦN MỘT
Tôi nghe như vậy! Một thời Đức Phật ở tại nước La Duyệt Kỳ cùng đông đủ đại Tỳ Kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị, Đại Bồ Tát, Thiên Long Bát Bộ, đại chúng và nhân dân tín thí đông vô số, tụ hội nghe Phật thuyết pháp.
Bấy giờ, có một người bần cùng chỉ có một chiếc khăn tay rách nát ý muốn bố thí, nhưng lại sợ vật bố thí tồi tàn, nên do dự chưa quết định.
Khi ấy, trong hội có một Tỳ Kheo Ni tên là Nại Nữ, từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh y phục, tác lễ quì gối chắp tay và bạch với Đức Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Con tự nhớ: Đời trước sanh ở nước Ba La Nại, làm một người nữ nghèo khổ.
Khi ấy có một vị Phật danh hiệu là Ca Diếp cùng đại chúng quay quanh nghe Ngài thuyết pháp. Lúc ngồi nghe Kinh tâm rất vui mừng, ý muốn bố thí. Nhưng không có gì để bố thí, tự nghĩ mình quá bần cùng lòng dạ u buồn.
Rồi con đi ra ngoài vườn cố gắng hái trái cây chín để cúng dường Đức Phật. Trong vườn có một cây táo rất lớn, hương thơm ngào ngạt. Con lấy cái bồn nước nâng lên, dùng cây khèo những quả táo để dâng lên Đức Phật Ca Diếp và chúng tăng.
Đức Phật biết ý muốn của con nên chú nguyện thọ nhận và phân bố nước táo cho khắp tất cả. Duyên tác phước này tận hưởng suốt đời sau đó con sanh Thiên được làm Thiên Hậu.
Lại sanh xuống thế gian trải qua chín mươi mốt kiếp không phải sanh từ bào thai mà sinh từ hoa cây táo, đẹp đẽ đoan chánh, thường biết túc mạng. Nay con được Đức Thế Tôn khai thị đạo nhãn.
Lúc ấy, Nại Nữ làm kệ đọc rằng:
Tam tôn lòng từ ban rải khắp
Tuệ độ vô số người nam, nữ.
Trái cây cúng dường được phước báo,
Nhờ vậy xa lìa các khổ nhọc.
Về trời liền được làm Thiên hậu.
Ở đời, sanh ra từ trong hoa.
Tự mình quay về độ Thánh Chúng.
Phước điền con được rất sâu dày.
Tỳ Kheo Ni Nại Nữ lễ xong quay về chỗ ngồi.
Bấy giờ, tại nước Duy Da Lê Trì Đạt Đa, trong vườn thượng uyển của Nhà Vua tự nhiên mọc một cây táo cành lá sum suê tốt tươi. Nó rất cao lớn lại có ánh sáng phát ra và hương thơm ngào ngạt khác thường. Nhà Vua rất yêu mến quý báu cây táo này.
Trong cung từ người tôn quí cho đến mỹ nhân ông ta cấm không được ăn trái cây này. Trong nước có một Cư Sĩ Phạm Chí giàu có, tiền của vô số không ai sánh bằng. Ông ta lại thông minh uyên bác, tài trí siêu quần nên Nhà Vua rất trọng mến và phong chức Đại Thần cho ông ta.
Một hôm, Nhà Vua mời Phạm Chí đến dùng cơm. Ăn cơm xong Nhà Vua lấy một trái táo ngon ra mời Phạm Chí.
Phạm Chí thấy trái táo thơm ngon khác lạ mới hỏi Nhà Vua: Tâu Đại Vương! Ở dưới cây táo này chắc có cây con.
Nếu có cho hạ thần xin một cây được không?
Nhà Vua nói: Cây nhỏ thì rất nhiều nhưng ta sợ nó hại cây lớn nên đã bỏ hết rồi. Nếu khanh muốn trồng ta giúp cho. Nhà Vua liền sai người đi lấy hột giống cây táo cho Phạm Chí. Phạm Chí trở về gieo trồng hôm sớm tưới nước, càng ngày càng phát triển to lớn, cành lá xanh tốt. Ba năm trôi qua cây táo đơm hoa kết trái, đủ loại màu sắc sặc sỡ giống như cây táo Nhà Vua.
Phạm Chí rất vui mừng tự nghĩ: Tài sản gia đình ta vô số không thua kém Nhà Vua, duy chỉ không bằng Nhà Vua là chưa có cây táo, nay ta đã được nó thì đâu thua gì Nhà Vua nữa!
Rồi Phạm Chí hái táo ăn nhưng ăn không được vì đắng và chát, buồn rầu chán nản lại suy nghĩ: Lẽ nào đất không màu mỡ hay sao!
Ông liền đi lùa trăm con bò sữa, chọn một con vắt sữa. Phạm Chí đem sữa con bò đó nấu thành đề hồ, lấy nước sữa tưới lên rễ cây.
Hàng ngày Phạm Chí tưới cây táo cho đến năm sau trái rất ngon ngọt như cây táo Nhà Vua không khác.
Nhưng bên cạnh cây táo bỗng nhiên nhô lên khối u càng ngày càng lớn, to bằng nắm tay, Phạm Chí suy nghĩ: Sao tự nhiên có khối u này?
Ông ta sợ có hại cho trái của nó muốn cắt bỏ đi nhưng sợ hại cho cây. Ngày nào cũng suy nghĩ lòng lưỡng lự chưa quyết định.
Rồi bỗng nhiên giữa khối u sinh ra một nhánh cây chỉa thẳng lên trời, to lớn cứng cỏi, vượt hơn ngọn cây táo chính, cách mặt đất bảy trượng. Ngọn cây của nó đâm ra rất nhiều nhánh che phủ khắp nơi. Hình dạng trông như cái lộng chổng ngược, hoa lá sum suê xanh tươi tốt hơn cây chính.
Phạm Chí lấy làm lạ không biết nó mọc lên từ đâu?
Bèn đóng thang gỗ leo lên xem thử, thấy trên cành cây bên trong như cái lọng lật ngửa, lại có chỗ nước đọng. Nước trong vắt và tỏa mùi hương thơm, lại có những đóa hoa màu sắc sặc sỡ. Phạm Chí vạch hoa ra xem thấy ở phía dưới một bé gái trong chỗ đọng nước, ông ta bồng về nuôi nấng và đặt tên là Nại Nữ.
Đến năm mười lăm tuổi Nại Nữ nhan sắc đoan chánh đệ nhất thiên hạ, tiếng đồn vang xa đến các nước.
Bấy giờ, có bảy Quốc Vương cùng nhau đến nhà Phạm Chí xin cầu hôn muốn cưới Nại Nữ làm phu nhân. Phạm Chí lo sợ không biết chọn ai, liền cất một cái lầu cao trong vườn cho Nại Nữ ở trên đó.
Phạm Chí thưa với các Quốc Vương: Tâu các Đại Vương! Nại Nữ không phải do hạ thần sinh ra mà nàng sinh ra từ cây táo, cũng không biết là nữ Thiên Long, Quỷ Thần hay vật của ma quỉ chăng?
Nay bảy Đại Vương đến đây cầu hôn với nàng thì hạ thần thiết nghĩ, nếu gả một vị thì sáu vị kia sẽ phẫn nộ. Nên hạ thần không dám chọn ai. Hiện nay, nàng đang ở trên lầu trong vườn, các Đại Vương tự ý nghị bàn tìm ra phương pháp.
Nếu như ai được thì đưa nàng về còn hạ thần không dám đặt điều kiện. Thế rồi, bảy Đức Vua cùng nhau tranh cãi, phân vân chưa quyết định cho đến tối, Bình Sa Vương theo đường hầm vào bên trong, leo lên lầu ngủ với Nại Nữ một đêm.
Sáng sớm, Bình Sa Vương chuẩn bị ra đi Nại Nữ thưa: Tâu Đại Vương! Đại Vương là người đức hạnh oai tôn đã tiếp đãi thần thiếp.
Nay lại chia tay ra đi, nếu thần thiếp có con, đó là hạt giống của Đại Vương thì phải gửi gấm ở đâu?
Nhà Vua bảo: Nếu là con trai đem về cho trẫm, còn con gái thì tiện thể nàng nuôi. Nhà Vua tháo ấn vòng vàng trong tay giao lại cho Nại Nữ để làm tin.
Nhà Vua quay lại nói với Quần Thần: Trẫm đã cùng Nại Nữ ngủ chung một đêm. Nàng không có gì lạ cũng như người bình thường, không giữ làm gì.
Lúc ấy, trong binh lính Bình Sa Vương tung hô Vạn tuế! Và hô lớn: Đức Vua của chúng ta đã được nàng Nại Nữ. Sáu vị Vua kia nghe như vậy họ quay trở về.
Từ khi Vua Bình Sa ra đi Nại Nữ mang thai và dạy người hầu: Nếu có ai tìm ta thì nói ta bị bệnh. Ngày tháng trôi qua, nàng mãn nguyệt khai hoa sinh một nam nhi, nhan sắc đoan chánh. Khi mới sinh đứa bé tay nó cầm kim châm cứu, đãy y dược.
Phạm Chí nói: Con Vua nước này mà nắm giữ đồ y dược chắc chắn thành y Vương. Nại Nữ lấy áo trắng mặc cho đứa bé, rồi sai nữ hầu đem nó để trong ngõ hẻm. Nữ hầu vâng lời ẵm đứa bé đem đi bỏ. Sáng sớm, Vương Tử Vô Úy lên xe để đến yết kiến Đại Vương, sai người dẹp đường.
Trên đường đi Vương Tử thấy một vật màu trắng, mới hỏi người đánh xe bên cạnh: Vật màu trắng kia là thứ gì vậy?
Thưa Vương Tử đó là một đứa bé.
Chết hay sống.
Dạ, còn sống.
Vương Tử ra lệnh người đánh xe ẵm đứa bé lên, đem về tìm nhũ mẫu nuôi dưỡng cho khôn lớn. Phạm Chí lại đem đứa bé này giao trở lại cho Nại Nữ và đặt tên là Kỳ Vực. Năm lên tám tuổi Kỳ Vực rất thông minh tài giỏi. Về sự học vấn bình thơ thông suốt đặt biệt có một không hai.
Mỗi lần chơi đùa, đứa bé này thường có tâm khinh khi những đứa bé láng giềng. Nó coi người ta không bằng mình.
Chúng bạn cùng nhau mắng chửi nó và nói: Mày là thứ không cha cái hạng dâm nữ sinh ra mày.
Vậy mà sao dám khinh tụi tao?
Kỳ Vực ngạc nhiên lặng thinh không trả lời, quay về hỏi mẫu thân: Thưa mẹ! Những đứa bạn của con, chúng đều không bằng con mà dám mắng chửi con rằng: Đồ cái thứ không cha.
Vậy hiện giờ cha con ở đâu?
Cha của con chính là Bình Sa Vương.
Bình Sa Vương ở tại nước La Duyệt Kỳ, cách đây năm trăm dặm làm sao sinh ra con?
Theo như lời mẹ nói thì lấy gì làm bằng chứng?
Người mẹ lấy ra ấn vòng vàng nói: Đây là vòng vàng làm chứng Bình Sa Vương là cha con. Kỳ Vực thấy ấn văn của Vua Bình Sa mới hiểu rõ, kính cẩn thâu giữ vòng vàng, rồi đến nước La Duyệt Kỳ.
Kỳ Vực đi thẳng vào cung môn, đến cửa không ai hỏi đi luôn đến trước Nhà Vua làm lễ, quì gối tâu lên rằng: Tâu Phụ Vương! Con là Vương Tử, mẹ Nại Nữ sinh ra con. Khi lên tám tuổi mới biết là dòng họ Nhà Vua, nên đem ấn vòng vàng làm tin từ xa đến đây. Nhà Vua thấy ấn văn nhớ lại lời thề thuở xưa, biết Kỳ Vực là con mình, lòng thương xót vô hạng và phong làm Thái Tử.
Thời gian thấm thoát hai năm, sau đó Vua sinh A Xà Thế.
Kỳ Vực nhân tiện thưa với Nhà Vua: Tâu Phụ Vương! Lúc con mới sinh tay đã cầm kim đãy y dược là phải làm thầy thuốc. Tuy Phụ Vương phong vị con làm Thái Tử nhưng con không vui. Nay chánh hậu sanh hoàng nam đã có người nối dõi tông tự. Vậy con nguyện được học y thuật xin Phụ Vương cho phép.
Nhà Vua nói: Con không làm Thái Tử mà học y dược thì không được hưởng bổng lộc của Triều Đình. Nhà Vua ban sắc lệnh cho các thầy thuốc thượng phủ, phải hết lòng dạy bảo Kỳ Vực. Kỳ Vực thường rong chơi không chịu học.
Các vị thầy trách than rằng: Y thuật là một nghề thô kệch chẳng phải nghề để Thái Tử Vương tôn học. Nay vì phụng mạng Nhà Vua không dám chống trái. Sắc lệnh đã ban xuống, ngày tháng trôi qua vậy mà Thái Tử không học nữa lời phương thuốc.
Nếu Nhà Vua có hỏi thì chúng tôi trả lời ra sao đây?
Kỳ Vực nói: Khi tôi mới sinh ra đã có dụng cụ y dược trong tay. Tôi đã xin Phụ Vương bỏ vinh hoa phú quí cầu học y thuật. Tôi đâu có giải đãi để phiền các thầy đôn đốc.
Thật ra nghề thuốc của các thầy không đủ để tôi học. Kỳ Vực liền lấy một ít vị dược thảo và phương pháp châm cứu kinh mạch hỏi các thầy thuốc.
Các thầy thuốc không trả lời được, tất cả đều quì gối xuống, đảnh lễ Kỳ Vực và chắp tay nói: Hôm nay, mới biết Thái Tử thật là thần thánh, chúng tôi không so sánh bằng. Những điều Thái Tử vừa hỏi là những chỗ nghi ngờ mà thầy chúng tôi, đã trải qua nhiều đời chưa hanh thông được.
Mong Thái Tử giãi bày tất cả những vấn đề đó mà nhiều năm chúng tôi còn gút mắc. Kỳ Vực giải thích những ý nghĩa nghi hoặc.
Các thầy thuốc vui mừng, đứng dậy đảnh lễ sát đất, ghi nhận lời dạy của Kỳ Vực.
Lúc này, Kỳ Vực suy nghĩ: Nhà Vua ban sắc lệnh cho các thầy thuốc dạy ta, nhưng ta không học bất cứ người nào.
Vậy ai có thể dạy ta y thuật?
Nghe nói nước Đức Xoa Thi La nọ có một thầy thuốc tên là A Đề Lê. Tự là Tân Ca La về nghề thuốc tuyệt luân có thể dạy ta.
Đồng Tử Kỳ Vực đi đến nước đó, đến chỗ ở của Tân Ca La thưa hỏi: Thưa Đại Sư! Nay con muốn thỉnh Đại Sư làm thầy con để con theo học nghề y thuật.
Thấm thoát bảy năm, một hôm Kỳ Vực nghĩ ngợi: Ta học tập y thuật đến nay không biết có thành đạt chưa?
Bèn đến thầy hỏi: Thưa thầy con học y thuật đến nay được chưa?
Vị thầy cầm cái rỗ sắt và dụng cụ đào thảo dược bảo: Con đi quanh nước Đức Xoa Thi La cách một do tuần, tìm các loại cỏ không phải là thảo dược thì đem về đây cho ta. Kỳ Vực vâng lệnh thầy ở trong nước Đức Xoa Thi La đi một do tuần, tìm những thứ không phải thảo dược, tìm khắp nơi toàn là cây thuốc, khéo léo tìm kiếm phân biệt tất cả thảo mộc, nhưng đều là cây thuốc có thể sử dụng được.
Kỳ Vực không lấy trở về thưa lại thầy: Thưa thầy! Hôm nay, thầy bảo con đi quanh nước Đức Xoa Thi La tìm cây không phải thảo dược, mà trong nước cách một do tuần con tìm khắp không thấy cây nào là chẳng phải cây thuốc. Con cố gắng tìm kiếm hết sức, phân biệt kỹ lưỡng nhưng đều sử dụng được hết.
Vị thầy bảo Kỳ Vực: Vậy con có thể ra đi. Về nghề y thuật con đã thành đạt rồi.
Trong cõi Diêm Phù Đề này ta là đệ nhất nhưng sau khi ta chết thì còn có con.
Thế là Kỳ Vực đi trị bệnh hễ chữa là lành, trong nước đều biết danh.
Một hôm, Kỳ Vực đi vào cung thành, đến trước cổng cung gặp một đứa bé gánh củi.
Kỳ Vực thấy tất cả ngũ tạng trong bụng đứa bé: ruột, vị… nhiều thứ rõ ràng.
Kỳ Vực suy nghĩ: Trong sách dược thảo có nói loại cây Dược Vương nhờ nó từ bên ngoài thấy được bên trong bụng nội tạng của con người.
Chẳng lẽ trong gánh củi của đứa bé này có cây Dược Vương sao?
Kỳ Vực đến hỏi đứa bé: Gánh củi bán bao nhiêu tiền?
Dạ, mười tiền. Kỳ Vực lấy tiền mua gánh củi, đặt gánh củi xuống đất thì trong bụng đứa bé tối sầm không thấy gì nữa.
Kỳ Vực lấy làm lạ nghĩ ngợi: Không biết vì sao trong bó củi lại có Dược Vương.
Liền tháo hai bó củi ra, lấy từng cây để lên bụng đứa bé, không thấy gì hết.
Kỳ Vực lại lấy từng cây trong hai bó củi làm như vậy cho đến hết, chỉ còn lại cây củi nhỏ cuối cùng dài hơn một thước.
Kỳ Vực lấy lên thử chiếu một lần nữa, thì thấy toàn bộ nội tạng trong bụng đứa bé.
Kỳ Vực rất vui mừng biết chắc cây củi nhỏ này là Dược Vương, rồi trả toàn bộ củi lại cho đứa bé.
Đứa bé vừa được củi vừa được tiền vui mừng hớn hở bỏ đi.
Bấy giờ, Kỳ Vực tự nghĩ: Trước tiên ta nên trị bệnh ai?
Nước này nhỏ lại gần biên địa, ta nên trở lại Bổn Quốc khai mở y đạo.
Rồi trở về thành Bà Ca Đà. Trong thành Bà Ca Đà có một đại trưởng giả.
Vợ ông ta đã mười hai năm qua thường có chứng bệnh đau đầu, nhiều thầy thuốc trị mà không khỏi.
Kỳ Vực nghe tin liền đến nhà trưởng giả, bảo người giữ cửa rằng: Người vào nói với trưởng giả là có một vị lương y đang đứng ngoài cổng.
Người giữ cổng vào trong thưa lại: Có vị thầy thuốc đang đứng ngoài cổng.
Vợ trưởng giả nghe hỏi: Ông thầy thuốc hình dáng ra sao?
Dạ, ổng trạc tuổi niên thiếu.
Vợ trưởng giả nghĩ thầm: Các bậc thầy thuốc lão túc, trị còn không được, huống gì là một người trẻ tuổi.
Rồi bảo người giữ cửa: Ngươi ra nói lại là hôm nay ta không cần lương y.
Người giữ cửa ra nói lại: Tôi vì ông thưa với trưởng giả nhưng bà vợ trưởng giả nói: Hôm nay bà không cần lương y.
Kỳ Vực lại nói: Ngươi có thể thưa lại với vợ trưởng giả, để ta trị nếu trị lành tùy ý cho ta gì cũng được.
Người giữ cửa vào thưa lại: Ông thầy thuốc nói như vậy: Hãy để ông ta trị nếu trị lành tùy ý cho ta gì cũng được.
Vợ trưởng giả nghe thế nghĩ ngợi:
Nếu vậy thì không tốn kém gì
Rồi dạy người giữ cửa ra mời vào.
Kỳ Vực vào đến chỗ vợ trưởng giả hỏi: Bà đau đớn như thế nào?
Dạ, đau như thế này, thế này…
Bệnh phát khởi ra sao?
Dạ, bệnh phát khởi như vậy, như vậy…
Kỳ Vực lại hỏi: Bệnh mới đây hay lâu chưa?
Dạ, thưa thầy bệnh lâu lắm rồi.
Kỳ Vực lấy thuốc hảo hạng dùng sữa đặc nấu, rồi rót vào mũi vợ trưởng giả. Trong miệng bệnh nhân sữa và nước miếng chảy ra. Lúc đó bệnh nhân lấy đồ hứng, gạt nước miếng lấy sữa, nước miếng đổ đi.
Kỳ Vực thấy vậy buồn rầu lo nghĩ: Chỉ có một chút sữa không sạch mà còn tham tiếc, huống nữa trả công cho ta.
Vợ trưởng giả thấy vậy hỏi trưởng giả Kỳ Vực: Trông thầy có vẻ buồn vậy?
Vâng, đúng thế.
Vì sao thầy buồn?
Tôi nghĩ một chút sữa này không sạch mà còn tham tiếc, huống nữa trả công cho tôi. Vì thế tôi buồn. Dạ, việc ấy không phải thế, đổ đi có ích gì, có thể dùng vào việc đốt đèn.
Vì thế tôi giữ lại, thầy cứ lo trị chớ có buồn như vậy! Kỳ Vực trị cho vợ trưởng giả. Sau khi bệnh lành, vợ trưởng giả đem ra bốn mươi vạn lượng vàng và nô tỳ, xe ngựa…biếu cho Kỳ Vực.
Kỳ Vực nhận lễ vật này rồi quay trở về thành Vương Xá, đến cung của Vương Tử Vô Úy bảo người giữ cửa: Ngươi vào bẩm với Vương Tử là có Kỳ Vực đến, đang đứng ở ngoài. Người giữ cổng vào thưa với Vương Tử. Vương Tử lệnh cho người giữ cổng mời Kỳ Vực vào.
Kỳ Vực đến trước đảnh lễ sát đất, đứng qua một bên đem hết mọi việc lúc trước trình bày đầy đủ lên Vương Tử Vô Úy và nói: Nay tôi được lễ vật này dâng hết cho Vương Tử.
Vương Tử bảo: Tôi không nhận, anh đã được người ta cúng dường thì tùy ý sử dụng. Đây là lần đầu tiên Kỳ Vực trị bệnh.
Bấy giờ, nước Câu Thiểm Di có con một trưởng giả chơi nhảy nhào lộn. Ruột trong bụng bị co thắt, ăn uống không tiêu, đại tiện cũng không được. Lương y nước này vô phương cứu chữa.
Trưởng Giả nghe nói nước Ma Kiệt có bậc lương y tài giỏi khả năng trị lành bệnh, bèn sai người đến thỉnh cầu Nhà Vua: Tâu Đại Vương! Nước Câu Thiểm Di con vị trưởng giả bệnh, duy chỉ có Kỳ Vực mới trị được. Nguyện xin Đại Vương cho phép thỉnh thầy Kỳ Vực đến đó.
Khi ấy, Bình Sa Vương gọi Kỳ Vực đến hỏi: Con trưởng giả nước Câu Thiểm Di bị bệnh con có thể trị được không?
Tâu Phụ Vương! Dạ được. Nếu được con có thể đến đó chữa trị.
Bây giờ, Kỳ Vực lên xe đến nước Câu Thiểm Di. Khi đến nơi con trưởng giả đã chết, tấu nhạc tiễn đưa.
Kỳ Vực nghe âm thanh ấy hỏi: Tiếng trống nhạc gì vậy?
Người bênh cạnh đáp: Đó là tiếng trống nhạc người ta đánh tiễn đưa con trưởng giả chết.
Kỳ Vực giỏi phân biệt các loại âm thanh, tức khắc ra lệnh quay trở lại và nói: Người ấy chưa chết. Người đánh xe liền quay trở lại.
Kỳ Vực xuống xe cầm dao bén mổ bụng, banh chỗ ruột bị thắt nói với cha mẹ và người thân rằng: Đây là do chơi bời nhào lộn mà ruột bị thắt rối như thế này, nên ăn uống không tiêu chứ chẳng phải chết. Kỳ Vực giải phẫu, sắp xếp ruột chỗ nào lại chỗ đó, may chỗ mổ lại, rồi lấy thuốc hảo hạng thoa trên vết thương tức thì lông mọc lên, lành lặn như không có vết thương.
Vợ của con trưởng giả đền ơn Kỳ Vực bốn mươi vạn lượng vàng. Con trưởng giả cũng đền ơn Kỳ Vực bốn mươi vạn lượng vàng. Ông bà trưởng giả cũng như vậy, mỗi người đều biếu bốn mươi vạn lượng vàng.
Lúc ấy, Kỳ Vực suy nghĩ: Mình đã làm được thầy thì phải nhớ ơn thầy, phải đền đáp công ơn thầy thuốc của mình. Rồi đem một trăm sáu mươi vạn lượng vàng về lại nước Đức Xoa Thi La, đến chỗ thầy mình là Tân Ca La.
Như đã dự định Kỳ Vực đem vàng đến chỗ thầy, đảnh lễ sát chân và dâng số vàng ấy lên nói: Xin Đại Sư thương con nhận cho.
Thầy bảo: Con có tấm lòng cúng dường nhưng ta không nhận báu vật đó đâu. Kỳ Vực ân cần thỉnh dâng nhiều lần nên thầy Tân Ca La mới nhận số vàng đó.
Kỳ Vực khiêm cung đảnh lễ ra đi. Khi ấy, trong nước có một gia đình Cư Sĩ có người con gái vừa tròn mười lăm, sắp sửa thành hôn bỗng nhiên đau đầu mà chết.
Kỳ Vực hay tin đến gia đình ấy hỏi thân phụ của người con gái: Con gái ông mang bệnh gì mà dẫn đến chết yểu?
Tiểu nữ nhà tôi bị chứng đau đầu, ngày tháng trầm trọng. Sáng này tái phát nặng hơn ngày thường rồi đưa đến tuyệt mạng.
Kỳ Vực đến lấy cây Dược Vương chiếu trong đầu xem, thấy côn trùng đục khoét, lúc nhúc lớn nhỏ vô số hàng trăm con. Chúng rúc rỉa trong não cho hết cạn nên cô ta chết.
Kỳ Vực lấy dao vàng mổ đầu cô ta, gắp hết côn trùng trong đó ra, bỏ vào cái vò đậy nắp lại. Lấy ba loại thuốc thần cao bôi lên vết thương. Một loại trị vết thương chỗ trùng ăn trong xương.
Một loại bổ não. Một loại trị vết thương dao mổ.
Kỳ Vực nói cha cô gái: Tốt lắm rồi! Để bệnh nhân nghĩ ngơi, cẩn thận đừng kinh động. Mười ngày nữa sẽ bình phục mau chóng, đúng ngày đó tôi sẽ trở lại. Kỳ Vực cáo từ ra đi.
Mẹ cô gái than khóc nói: Sao như thế! Chỉ vì để sống lại mà phải mổ não đầu, nên con tôi phải chết một lần nữa. Ông làm cha cớ gì nhẫn nhịn để người ta mổ con mình như vậy.
Người cha ngắt lời: Thầy Kỳ Vực lúc mới sinh ra tay đã cầm kim y dược, từ bỏ địa vị tôn quí, làm thầy thuốc chỉ vì tất cả mạng người. Đó là Y Vương của Trời đâu có dối trá, bà chớ nói như vậy.
Thầy có dặn tôi phải cẩn thận chớ kinh động, mà bà không nghe khóc kể làm kinh động con mình, nó không sống lại được.
Người vợ nghe chồng nói không khóc nữa. Hai người cùng nhau săn sóc con. Hai vợ chồng bình tĩnh trong bảy ngày.
Sáng sớm ngày thứ bảy, người con gái hắt xì thức dậy như người ngủ tỉnh giấc, liền hỏi: Hôm nay, sao con không còn đau đầu, thân thể khỏe khoắn ai giúp cho con được thế này?
Người cha nói: Lúc trước con đã chết, Y Vương Kỳ Vực đến đây giúp con, thầy mổ đầu lấy hết côn trùng cứu con sống lại. Người cha mở cái vò đựng côn trùng đưa cho con gái xem.
Cô thấy rất kinh sợ tự nghĩ: Mình quá may mắn mới có Thần Y Kỳ Vực đến cứu giúp như vậy. Ta phải mau đền đáp công ơn này.
Người cha bảo: Thầy Kỳ Vực có hứa với cha hôm nay sẽ trở lại. Lúc ấy, Kỳ Vực cũng vừa đến.
Cô con gái vui mừng hớn hở chạy ra cửa đón tiếp, đảnh lễ sát đất, quì gối chắp tay thưa: Nguyện xin thầy cho con theo làm nô tỳ, trọn đời phụng dưỡng để đền đáp ơn thầy cứu mạng.
Kỳ Vực nói: Ta làm thầy thuốc đi trị bệnh khắp nơi không chỗ cố định, làm sao nuôi người hầu. Cô muốn đền đáp công ơn thì biếu cho ta năm trăm lượng vàng.
Ta không chi tiêu số vàng này nhưng ta đòi hỏi vì: Phàm người học đạo đúng phép tắc phải tạ ơn thầy. Thầy ta tuy không dạy ta nhưng ta từng là đệ tử. Nay được số vàng của cô, ta lấy nó tạ ơn thầy. Cô gái đem đến năm trăm lượng vàng biếu cho Kỳ Vực. Kỳ Vực đem về dâng cúng lại cho thầy, nhân tiện bạch lên Nhà Vua xin về nước Duy Da Ly để thăm mẹ.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba