Phật Thuyết Kinh Năm Phật đảnh Tam Muội đà La Ni - Phẩm Năm - Phẩm Hành Tướng Tam Muội Gia Của Năm đảnh Vương
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy
PHẬT THUYẾT KINH
NĂM PHẬT ĐẢNH TAM MUỘI
ĐÀ LA NI
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Bồ Đề Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy
PHẨM NĂM
PHẨM HÀNH TƯỚNG TAM MUỘI
GIA CỦA NĂM ĐẢNH VƯƠNG
Bấy giờ Kim Cang Mật Tích Thủ chắp tay, cung kính bạch rằng: Thế Tôn Như Lai Vô Thượng Ứng Chánh Đẳng Giác! Nguyện xin rũ thương vì người tu hành, lược nói hành pháp thành tựu, lý thú thâm sâu, oai đức rộng lớn của Đảnh Vương.
Lại bạch rằng: Thế Tốn Hết thảy Chú khác đều y theo điều đã tụng trì trong.
Chú này, làm sao được thành?
Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo Kim Cang Mật Tích Thủ rằng: Lành thay! Lành thay Mật Tích Thủ! Ông hay khéo nêu lên câu hỏi này để thưa hỏi ta.
Ông nên nghe cho kỹ! Hãy nghe cho kỹ rồi tịnh tâm trì niệm. Nay ta vì ông nói hành pháp, lý thú, nghĩa của câu Kim Cang của hết thảy Chư Phật… được sanh ra từ lý pháp trong câu kệ tối thắng của vô lượng Phật, để được lợi ích thành tựu Chú.
Lúc đó, Đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn quán sát khắp đại chúng, dùng tiếng Đại Phạm khen ngợi Già Tha Gāthā:
Kệ Tụng rằng: Thích Ca Đại Sư Tử Vô Lượng Môn Bồ Đề.
Lý thú, hạnh tự tại
Sẽ làm Tối Thượng Sứ
Thấy khổ ép hữu tình
Ưa trì hành pháp này
Trời, Người cùng kính ngưỡng
Sẽ thành Vô Thượng Tôn
Tu tập tối pháp pháp cùng tột này
Đại Diệu Đà La Ni
Tin tưởng, ưa cúng dường
Tâm tương ứng bồ đề
Trụ Tháp, nhà thất sạch
Bên sông với bên suối
Độc thụ cây đứng một mình, trong hang núi
Nơi rừng núi nhiều hoa
Một mình, tâm bền chắc
Sửa thân, miệng thanh tịnh
Nơi này: Ăn, đi, ở
Y pháp thường cấm giới
Một lòng nhớ Trì Chú
Biết Bí Tam Ma Địa Tam Ma Địa bí mật
Xuất sanh với thành tựu
Chứng pháp thành tựu xong
Viên mãn điều ưa thích
Chẳng lâu được bồ đề
Nên dùng hai loại ý
Trì giới kèm bạn lành
Thành tựu đây chẳng khó
Tâm chẳng động, cực chắc
Pháp Phật đảnh, bồ đề
Đây tức thân được chứng
Nếu không có đồng bạn
Siêng tu vì hữu tình
Tướng đông nhiều khó nghĩ
Tức thân này được chứng
Pháp thành tâm ấn tháp
Tụng Chú, tu đại pháp
Mỗi mỗi hiểu rõ ràng
Tức thân này được chứng
Cứng chắc rất tinh tấn
Tâm rộng lớn vô lượng
Làm pháp là tối thượng
Tức thân này được chứng
Tướng thân chi đầy đủ
Ngay thẳng, đủ thiện phước
Hay nhẫn khổ, đói, khát
Người này được thành tựu
Người căn lành như vậy
Nếu đang được Kinh này
Với được pháp môn này
Kẻ ấy cũng chẳng lâu
Tối thắng chứng thành tựu.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Kim Cang Mật Tích Chủ rằng: Sau khi ta diệt độ, có hữu tình ngu si, tội ác với có kẻ trụ lâu dài nơi Tràng Tướng tên gọi khác của Cà Sa của ta như Bí Sô, Bí Sô Ni, Ổ Ba Tắc Ca, Ô Ba Tư Ca thường ưa thích chạy theo ngu si, tà kiến các đàm luận ác.
Tham đắm mùi vị ngon đẹp, lười biếng thiếu đức. Chẳng tin nhận oai đức, tĩnh lự thiền định, mười sức vô úy của Như Lai, thuyết của Đại Thừa. Không có sức thuận tu Luật của Bồ Tát, thực hành pháp giáo phương tiện. Tâm chê bai, chế diễu chỉ trích, chẳng kính chẳng tin Môn Tam Ma Địa, thần thông, oai đức của Chư Phật Bồ Tát.
Khi nhóm ấy trì làm chẳng được thành tựu, tức tăng thêm chê bai ta với chê bai Bồ Tát, rồi xướng lên rằng: Pháp này chẳng phải là Đức Phật nói, mà là ma nói, vọng nói Bồ Tát với thực hành đại ngã, nhóm thiện nam tử, thiện nữ nhân siêng năng Trì Chú này… do chê bai, chế diễu, não loạn làm các chướng ngại cho nên nhân vào tội lỗi gây hại này sẽ bị vô lượng tội nặng Vô gián.
Thế nên Mật Tích! Có nhóm thiện nam tử, thiện nữ nhân nguyện muốn phát thực hành Bồ Tát Hạnh, tín hướng bền chắc, một lòng chánh nguyện, thường ưa thích viết chép Kinh Điển đại thừa, đọc tụng, cúng dường, vì người khác giải thích, y theo Kinh Bảo Vũ thực hành, học tập mỗi một pháp môn của Bồ Tát, lại gia thêm thực hành pháp hành tức được thành tựu.
Lại bảo Mật Tích: Đâu là chỗ thành tựu của Chú?
Từ thân siêng năng chân thành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, định, huệ thanh tịnh. Một lòng tu tập tức mau thành tựu.
Lúc đó, Kim Cang Mật Tích Thủ lại bạch Phật rằng: Thế Tôn! Làm sao thực hành môn bí mật, quán tưởng, hộ tịnh của Đảnh Luân Vương này?
Xin Đức Thế Tôn rũ lòng thương. Nguyện vì con giải thích do đầy đủ pháp của pháp này, cho nên mau được Pháp Thành Tựu Chứng của Đảnh Vương.
Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo Kim Cang Mật Tích Thủ rằng: Ông hãy nghe cho kỹ! Ta vì lợi ích cho kẻ đức mỏng, phước kém, ít tinh tấn… nói hết thảy môn bí mật.
Khi tu trì pháp thì mỗi ngày ba thời theo pháp tẩy tịnh, tắm rửa sạch sẽ, chẳng tham các dục, niệm tâm không có loạn, duy nhất tưởng Phật, tâm từ duyên khắp mười phương hữu tình. Đem đất sạch hòa chung với bột phân bò khô rồi Chú vào, rửa tay, tẩy tịnh, tắm rửa sạch sẽ, thân mặc áo tắm, kết Ấn hộ thân.
Hộ Thân Chú là:
Úm, ma ma, hổ hồng, nễ.
Lại nên tụng Chú này bảy biến hộ thân.
Nếu sám tội chướng, cầu hướng đến thần thông thì nên dùng đất màu trắng không có loài trùng, không đỏ không đen không hôi thối không dơ bẩn.
Nếu cầu giàu có. Dùng đất màu trắng vàng. Đất ấy không có loài trùng, cũng không hôi thối dơ bẩn.
Nếu làm pháp hàng phục thì dùng đất màu đỏ đen.
Nếu muốn người khác tôn trọng thì dùng đất chẳng trắng chẳng đen.
Nếu muốn người khác yêu kính, khen ngợi thì dùng đất màu đỏ xanh. Nhóm Pháp như đây, người Trí khéo biết.
Chú lấy đất Thủ Độ Chú là:
Úm, na la, hổ hồng.
Chú vào đất bảy biến, đào lấy đất, làm hết thảy pháp.
Nếu gặp nước sông suối Linh Thánh thanh khiết, có mọi loài chim, ở trên bốn bờ có cây nhiều hoa quả, phước thắng cát tường thì bước vào trong tắm gội.
Gia Trì Tẩy Dục Chú là:
Úm, nhập phạ la, hổ hồng.
Lại tụng Chú này bảy biến, hộ thân, rưới rót trên đảnh đầu, tắm gội.
Nước này tuy là nước Thánh, nếu có nạn sợ hãi với nhiều đàn bà, con nít, súc vật, thú… dẫm đạp dơ bẩn. Tức chẳng thể dùng để tắm.
Gia Trì Chú là:
Úm, bả la nhập la la, hổ hồng.
Nếu khi tắm thời Chú vào đất bảy biến, để dất nơi chỗ sạch, không có dơ uế không có khạc nhổ.
Tiếp đến, Bị Giáp Chú Chú mặc áo giáp là:
Úm, nhập phạ la đế xà, hổ hồng.
Nếu đang tắm thời dùng tay phải: Ngón trỏ, ngón giữa, ngón vô danh, ngón út mau nắm lại thành quyền để bên dưới trái tim, dựng thẳng ngón cái đè ở trên trái tim, tụng Chú chú vào ngón tay của quyền, tưởng thành bị giáp mặc áo giáp.
Bị Thúc Giáp Trụ Chú Chú khoác cột áo giáo là:
Úm, nhập phạ la, bá la cật la ma ma, hổ hồng.
Chú này lại chú ngón tay quyền ở trên trái tim, chỉ thân thể bảy lần, rồi từ từ đi vào nước khiến cho nước đến eo lưng.
Nhất Thiết Đảnh Vương Tâm Chú là:
Úm, trác lỗ lỗ, bạn đà, sa ha.
Chú này vào trong nước lửa tụng bảy biến, tức sẽ cấm chỉ Tỳ Na Dạ Ca. Loài Rồng, Ba Ba trong nước chẳng dám gây tai hại với hay thành hộ hết thảy sự nghiệp.
Lại một lần nữa Chú vào đất bảy lần, chia làm ba phần, ba loại để lau chùi tẩy rửa. Trước tiên lấy một phần chà xát lau chùi tẩy rửa từ bàn chân cho đến đầu gối. Tiếp theo, lấy một phần chà xát lau chùi tẩy rửa từ đầu gối cho đến rốn. Tiếp theo, lấy một phần chà xát tẩy rửa từ rốn cho đến vai, cánh tay, mặt, bàn tay, lưng…
Tắm xong mặc áo, lại dùng Chú này chú vào nước bảy biến, ba lần rưới vảy trên đầu, yên lặng không nói năng. Lại tụng Chú này làm pháp hộ thân.
Tiếp theo, tụng Nan Thắng Phấn Nộ Vương Chú, tiếp theo tụng Phật Hào Tướng Bồ Tát Chú, tiếp theo tụng Phật Nhãn Bồ Tát Chú, tiếp theo tụng Tồi Toái Đảnh Vương Chú. Nhóm Chú như vậy trì hộ hết thảy rất ư thắng thượng.
Nếu làm pháp trong Phật Chủng Tộc Chú thì Phật Nhãn Chú là hơn hết. Làm pháp trong năm Đảnh Luân Chú này thì Phật Nhãn Chú cũng là cao hơn hết. Nếu kết Đàn, Địa Giới với mười phương giới, tự hộ, hộ bạn thì nên dùng Tồi Toái Đảnh Vương Chú với Nhất Thiết Đảnh Vương Tâm Chú.
Tịnh Thân Khẩu Chú là:
Na mạc tát phạ bột đà, bồ địa tát đả nam. Úm, tuất điện nại la, du đà na dã, sa ha.
Phật Tộc Chú này, khi vào Đàn thời mặc áo sạch xong, Chú vào nước ba biến, xúc miệng, rưới rót trên đầu, tai, vai, trái tim… chỉnh sửa dáng vẻ, nhìn thẳng, phát tâm đại bi, chỉnh sửa bước đi, từ từ đi thẳng vào bên trong Đàn.
Như vậy, người Trí luôn mặc áo bông vải sạch mới, tu Chú Pháp này, thường dùng Nhất Thiết Đảnh Vương Tâm Chú chú vào hết thảy vật. Ở trước tượng Luân Vương trì cúng hiến xong, ngồi trên cỏ tranh, một lòng tưởng tượng Chư Phật Bồ Tát, tụng Chú, kết Ấn, khải triệu, phát nguyện, quán sát kỹ lưỡng nơi Tượng, thân chẳng lay động, mắt chẳng liếc nhìn, kết Liên Hoa Ấn, Khải Phật Tọa Ấn… như vậy tác trì.
Tại sao thế?
Vì được tòa của Phật, tòa của Bồ Tát.
Tiếp theo, Chú cầm tràng hạt Bả Sổ Châu Ấn là:
Úm, át bộ đê, nhĩ nhạ duệ, tất địa, tất đà hát lật đệ, sa ha.
Phật Tộc Chú này dùng tràng hạt bằng hạt Bồ Đề, mỗi khi lần một hạt đều Chú ba biến, mau được thành hướng Chánh Đẳng Bồ Đề Tam Đẳng Chứng Pháp Pháp Chứng của ba nhóm thuộc Chánh Đẳng Bồ Đề.
Hết thảy Pháp Đà La Ni ấy cũng như nhóm Pháp của ba thành tựu này.
Cầu phú quý giàu có, dùng hạt châu bằng vàng, bạc.
Cầu sẽ thành tựu hết thảy việc thù thắng thì dùng hạt châu bằng Pha Lê.
Dây xỏ hạt châu thì nhờ Đồng Nữ se bện, đều tụng Bổn Chú chú vào hạt châu mà xỏ cột thành chuỗi.
Chú chú vào tràng hạt Chú Sổ Châu Chú là:
Na mô bà già phạ để, tất thê sa, sa đà dã, sa đà dã, tất đà thê, sa ha.
Tụng, dùng Chú này chú vào hạt châu, xỏ xâu xong, bụm lấy tràng hạt, chắp tay, Chú bày biến. Đây gọi là Pháp Thọ Trì Châu.
Thường ngồi trên cỏ tranh, một lòng yên lặng, mặc áo Sô Ma vải gai, trì tụng khóa xong, làm pháp an ổn. Nếu thời số xong, lại chú vào cây Đặc Thất Lợi, hoặc cây mật La, hoặc cây Bạch Chiên Đàn, hoặc cây Phong Hương… làm pháp phú nhiêu giàu có đều được thượng thành tựu.
Nếu nhóm cây cỏ gai, cây Khư Đà La, cây Ca La Nhĩ La dài mười hai ngón tay, cắt vót nhọn đầu, làm pháp điều phục cũng được thượng thành tựu.
Không có nhóm cây trên, chỉ được lá thì lấy lá không có loài trùng, cũng được thành tựu.
Nên đem phân bò hòa với các nước thơm, mỗi ngày xoa bôi, rưới vảy chỗ ngồi, nằm với chỗ Quán Đảnh. Nước cần dùng thời đều lọc cho trong sạch, quần áo trong ngoài thường luôn giặt sạch.
Như đây, làm pháp. Nếu chẳng thành tựu, liền gia thêm Nhất Thiết Đảnh Luân Vương Tâm Chú mỗi mỗi biến đồng tụng. Lại chẳng thành tựu thì lại gia thêm Phật Nhãn Chú, cả ba đồng tụng, tâm đừng buông lung bối rối. Phật Nhãn Chú này là điều mà Chư Phật quá khứ đã từng cùng chung nói.
Nay Ta lại nói, vì người sẽ thành tựu sám ngũ nghịch sám hối năm tội nghịch, trì Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú này được đại chứng thành, huống chi là người có tánh trong sạch, đầy đủ tín căn trì chẳng thành tựu. Nếu người Trì Chú này không có tượng năm Đảnh Luân Vương này để ngồi đối diện trì niệm, thì như Đức Phật nói Tượng, hãy tưởng tượng ở ngay trước mắt, một lòng chiêm ngưỡng, chắp tay lễ xong, ngồi Kiết Già ngay ngắn.
Định Tưởng Tâm Chú là:
Na mô la đát na đát la dạ gia. A giả la, nhĩ lộc, sa ha.
Tụng bảy biến, kết tưởng trên Đại Ấn, có vô lượng các báu. Dưới ngọn núi lớn tưởng có nước trong của biển lớn. Trên núi tưởng có hoa sen bảy báu có vô lượng trăm ngàn cánh to lớn, đài hoa tròn rộng lớn, cọng rất to lớn, trên lá, đài hoa sen… tưởng có trướng báu, hình trăng đầy, hình bán nguyệt, ngọc báu, chuông, khánh, trân châu, màn lưới, giáp vòng để nghiêm sức.
Bên trong có Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai, thân đủ ba mươi hai tướng Đại Nhân, tám mươi vẻ đẹp, ngồi Kiết Già trên tòa sư tử, mắt quán nhìn tượng Đảnh Vương, như trên nói Tượng, tưởng đều có.
Trên Điện tưởng có dù lọng bảy báu, dùng mọi lưới báu vây quanh trang nghiêm. Như vậy tưởng quán dài rộng trăm xích 100/3 m tưởng thành trăm xích, dài rộng một dặm tưởng thành một dặm, dài một do tuần tưởng một do tuần, triển chuyển cho đến Trời Sắc Cứu Cánh.
Quán hành tướng này, tâm đừng do dự đuổi theo các cảnh, hoặc quán tâm loạn.
Quán Tưởng Đại Hải Chú là:
Úm, nhĩ ma lộ na địa, hổ hồng.
Tụng bảy biến, quán tưởng biển lớn sáng sạch trong suốt, không có sóng động, hiển hiện rõ ràng.
Ngay trong tâm biển, quán tưởng ngọn núi báu.
Chú là:
Úm, a già la, hổ hồng.
Tụng bảy biến xong, quán tưởng núi báu tròn rộng đẹp đẽ, đầy đủ mọi báu hiển hiện chiếu sáng.
Tiếp đến, Bảo Sơn Liên Hoa Chú là:
Úm, hổ, ca ma la, sa ha.
OṂ HUT phụng hiến KAMALA hoa sen đỏ SVĀHĀ.
Tụng bảy biến, quán tưởng hoa sen bảy báu có vô lượng trăm ngàn lá to lớn:
tua, nhụy, đài, cọng… đều hiển hiện ánh sáng.
Quán Tưởng Bảo Điện Chú là:
Na mạc tát phạ đát tha nga đá nam. Úm, tát phạ thổ nghiệt đê, tát phả la, y ma hồng, già nga na kiếm, sa ha.
Tụng bảy biến, quán tưởng cái điện báu với mọi loại trang nghiêm, hiển hiện ánh sáng.
Tiếp theo, tụng Bổn Sở Trì Chú Chú vốn đã trì khải thỉnh Phật Hội. Trong điện mọi báu, cầm mây hương, hoa thơm, thức ăn thơm, nước thơm cúng hiến Phật Hội.
Liền phát Nguyện rằng: Nguyện xin chúng Thánh đều dùng thần lực trụ nhận cúng dường.
Đợi giáp vòng xong, tiếp đến tụng Nhất Thiết Đảnh Vương Tâm Chú một trăm lẻ tám biến, kết trì Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn góc, phương trên, phương dưới.
Xong, tiếp đến quán trong Đại Giới của Đàn, tưởng biển nước thơm tắm Thích Ca Mâu Ni Chân Báo Thân Phật. Lại nên một lúc tưởng tắm tất cả thân Phật với Chủng Tộc của Phật, Chú Thần của Bồ Tát kèm với Chú Thần.
Tưởng tắm xong hết. Lại tưởng mọi loại Chiên Đàn, hương xoa bôi… một lúc xoa bôi trang sức hết thảy thân Phật với Chủng Tộc của Phật, Bồ Tát, Chú Thần…
Lại tưởng mọi loại lụa là kỳ diệu, dây vàng, Ca Sa, mão đội đầu, Anh Lạc với các quần áo… một lúc khoác đeo trên thân của hết thảy Phật với chủng tộc của Phật, Bồ Tát, Chú Thần… tưởng thưa thỉnh ngồi trong Hội.
Tiếp theo, tưởng cầm hiến các thức ăn uống, một lúc cúng dường hết thảy Chư Phật với chủng tộc của Phật, Bồ Tát, Thần xong. Hành Giả dùng căn lành này, tâm miệng tỏ bảy chân thành sám hối mọi tội, hồi hướng bồ đề, thỉnh Phật chuyển bánh xe đại pháp.
Nhân Giả người có đức hạnh liền quán sát kỹ lưỡng đầu lỗ mũi, tưởng tâm không có nghi ngờ, tay phải bấm lần hạt châu, tay phải để ngang ngực, kết Sổ Châu Ấn mỗi mỗi thuận theo tụng Chú.
Đầy đủ số khóa xong, để tràng hạt sổ châu ở nơi phù hợp tinh khiết, Ấn Chú hộ trì, lại đốt hương lần nữa, tưởng các hoa hương như pháp cúng hiến. Liền tụng Bổn Chú giải Đàn Phương Giới, chắp tay đảnh lễ, y theo phương phát khiển.
Như vậy tưởng pháp ba mươi tuần nhật ba trăm ngày, một tuần nhật là mười ngày, yên lặng chặt đứt các luận, mỗi ngày ba thời, sẽ được thấy Chứng Địa, Tam Ma Địa Môn.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba