Phật Thuyết Kinh Pháp Cú Thí Dụ - Phẩm Bốn Mươi Mốt - Phẩm đao Lợi - Thí Dụ Bảy Mươi Mốt
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Pháp Cự, Đời Tây Tấn
PHẬT THUYẾT
KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Pháp Cự, Đời Tây Tấn
PHẨM BỐN MƯƠI MỐT
PHẨM ĐAO LỢI
THÍ DỤ BẢY MUƠI MỐT
Thuở xưa có một vị Quốc Vương dùng chánh pháp trị dân, ai ai cũng mến mộ đức độ. Song Vua lại không có Thái Tử nối ngôi nên rất buồn lo về việc này. Một hôm, Đức Phật đến nước đó. Vua ra nghênh đón, nghe pháp vui mừng và xin lãnh thọ ngũ giới.
Vua ngày đêm tinh tấn, nhất tâm phụng trì chỉ xin nguyện có một đứa con. Trong cung có một thị đồng mười một tuổi mà Vua thường dùng sai bảo. Cậu ấy là người trung tín, khiêm tốn giữ phép, không trái cung cách.
Cậu lại tinh tấn hết lòng học tập, đọc tụng Kinh kệ, suốt mấy năm cậu ấy luôn dậy trước mọi người, sắp đặt chuẩn bị chu đáo nhang đèn không biết nhọc. Rốt lại cậu mắc bệnh nặng chết đi, thần thức tái sinh làm con của Vua.
Vua hết sức thương yêu, hết lòng nuôi dưỡng, đến năm mười lăm tuổi lập cậu lên làm Thái Tử. Sau khi Vua băng hà, Thái Tử lên kế vị. Từ khi lên ngôi, tân Vương trở nên kiêu mạn, phóng túng, hoang dâm vô độ, ngày đêm chìm đắm trong ngũ dục không lo việc nước. Vì thế mà các quan luôn bị bỏ triều, nhân dân bị khốn khổ.
Đức Phật biết Vua không hiểu được bổn hạnh của mình, nên dẫn đệ tử đến nước đó hóa độ. Vua nghe Đức Phật đến, theo phép tiên vương cũng dẫn đại chúng ra nghênh tiếp, cúi đầu đảnh lễ rồi ngồi xuống chỗ của mình.
Đức Phật hỏi thăm Vua: Đất nước nhân dân, bá quan vẫn an ổn như thường chứ?
Vua đáp: Quả nhân còn trẻ chưa đủ tài đức trị dân. Nhờ ân Phật mà trong nước vẫn an ổn.
Đức Phật lại hỏi: Vua có biết mình từ đâu sinh đến không?
Tu công đức gì mà được Vương vị không?
Vua đáp: Con ngu si không rõ, không biết đời trước làm gì.
Đức Phật bảo: Này Đại Vương, người do năm việc mà được làm Quốc Vương.
Thế nào là năm?
Đó là:
1. Bố thí được làm Vua, được vạn dân phụng hiến cung điện, dâng nạp tiền của vô số.
2. Xây dựng Chùa Tháp, cúng dường Tam Bảo giường chõng, màn trướng được làm Vua. Nhờ phước đó mà nhà Vua được ngự trên ngai vàng giữa triều trị nước.
3. Thân cận, lễ kính Tam Bảo và các bậc trưởng đức nên được làm Vua. Nhờ phước này nên Vua được muôn dân kính lễ.
4. Nhẫn nhục ba nghiệp của thân, bốn nghiệp của miệng, ý không ác niệm do đó làm Vua. Nhờ phước này nên ai trông thấy mặt Vua cũng vui mừng.
5. Học hỏi, thường cầu trí tuệ nhờ đó được làm Vua. Nhờ phước này nên Vua quyết đoán việc nước ai cũng nghe theo.
Thực hành năm việc này đời đời sẽ làm Vua.
Bấy giờ Đức Thế Tôn nói kệ:
Người biết thờ bậc trên
Vua, cha, thầy, Đạo Sĩ
Có tín, giới, thí, tuệ
Chết an, tái sinh an.
Đời trước có phước đức
Nay tôn quý hơn người
Lấy đạo trị thiên hạ
Phụng pháp, ai cũng theo.
Vua là chủ thần dân
Thường yêu thương kẻ dưới
Thân noi theo giới pháp
Làm gương dạy mọi người.
Sống an chớ quên nguy
Sáng suốt, phước càng đầy
Quả báo của phước đức
Không luận hèn hay sang.
Đức Phật bảo Vua: Tiền thân của Vua là thị đồng của Tiên Vương. Do nhờ tín tâm thờ Phật, thanh tịnh trì pháp, cung kính hầu Tăng, hiếu thảo cha mẹ, trung can với Vua, nhất tâm tinh tấn bố thí, cực nhọc mà không biếng trễ nên được phước đời này làm con tiên vương, thừa hưởng ngôi vị vinh hoa phú quý. Thế mà nay Vua giàu sang trở lại biếng trễ.
Phàm làm Vua nên thực hành năm việc:
1. Lãnh đạo muôn dân mà không có xa xỉ, phí phạm.
2. Nuôi dưỡng tướng sĩ tùy thời sai bảo.
3. Nhớ tu theo bổn nghiệp để phước đức còn mãi không dứt.
4. Biết tin nghe lời chánh trực của trung thần, không nghe lời sàm tấu làm hại bề tôi trung trực.
5. Tiết dục, không đắm theo dục lạc, không buông lung phóng dật.
Làm được năm việc này sẽ vang danh bốn biển, phước lộc tự đến. Bỏ năm việc này giềng mối sẽ mất hết. Nhân dân khốn khổ sẽ nghĩ đến việc nổi loạn, quân lính nhọc nhằn sẽ bỏ bê việc công. Do vô phước quỷ thần không giúp đỡ, lại tự tung tự tác bất kể đạo lý, trung thần không dám can ngăn.
Cho nên việc nước bỏ bê, gian thần lộng hành, nhân dân oán thán. Nếu như vậy hiện đời thân bại danh liệt, đời sau sẽ vô phước khổ đau.
Bấy giờ Đức Thế Tôn lại nói kệ:
Phàm lãnh đạo thế gian
Tu chánh đạo không tà
Điều tâm, thắng các ác
Đó là bậc Pháp Vương.
Thấy đạo, hay tuệ thí
Nhân ái, thích lợi người
Bình đẳng với tất cả
Được vậy chúng tựa nương.
Nghe Đức Phật nói kệ xong, Vua vô cùng hoan hỷ, đê đầu đảnh lễ trước Phật để sám hối và tạ ân, rồi thọ ngũ giới tu tập. Đức Phật lại vì Vua thuyết pháp. Nghe xong, Vua đắc quả Tu Đà Hoàn.
Thuở xưa, Đức Phật trú tại Tinh Xá Kỳ Thọ nước Xá Vệ vì hàng trời người, Vua quan, bốn bộ đệ tử thuyết đại pháp vô thượng. Lúc ấy, phía Nam của nước này có một vùng núi sâu, nơi đây thường xuất hiện một loại voi lớn.
Con voi có ba màu trắng, xanh và đen. Vua muốn có loại voi lớn chiến đấu này nên sai người bắt nó giao cho điều tượng sư huấn luyện. Ba năm sau, voi có thể dùng để cỡi hay chiến đấu.
Lúc đó có một con voi thần do rồng sinh ra, thân trắng như tuyết, đuôi đỏ như son, hai ngà màu vàng kim. Thợ săn trông thấy con voi khác thường này bèn trở về tâu Vua, mô tả hình dáng và bảo nó xứng đáng để Vua cỡi.
Vua liền ra lệnh tuyển mộ thợ săn voi hơn ba mươi người vào rừng bắt nó. Bọn họ đến chỗ voi giăng lưới định bắt. Thần tượng biết được ý người liền bước đến, cố ý rơi vào vòng lưới.
Mọi người xúm lại định bắt, voi nổi giận lồng lên đạp những người đứng gần chết ngay tại chỗ, chỉ những kẻ ở xa mới kịp bỏ chạy, nhưng voi đuổi theo chẳng buông tha.
Lúc ấy, cạnh núi có các Tỳ Kheo trẻ tuổi khỏe mạnh, đã tu học rất lâu nhưng chưa được định tâm. Họ ở xa thấy thần tượng đuổi theo giết người nên khởi lòng thương xót định cậy mạnh chạy đến cứu.
Đức Phật từ xa trông thấy việc này, sợ các Tỳ Kheo bị thần tượng giết hại, nên liền hiện đến bên cạnh voi phóng hào quang rực rỡ. Voi trông thấy hào quang của Đức Phật không còn sân hận, thôi không đuổi theo giết người nữa.
Các Tỳ Kheo thấy Đức Phật vội làm lễ đón chào.
Đức Phật vì các Tỳ Kheo nói kệ:
Chớ vọng true thần tượng
Để chuốc khổ vào thân
Ác ý là tự sát
Chết không sinh cõi lành.
Các Tỳ Kheo nghe kệ xong liền cúi đầu đảnh lễ sám hối. Rồi họ tự quán xét sâu xa lỗi lầm của mình, chứng được quả A La Hán ngay trước Đức Phật. Các thợ bắt voi lúc ấy mới hoàn hồn, nghe pháp xong, đều hiểu được đạo.
Thuở xưa, Đức Phật trú trên núi Kỳ Xà Quật thành La Duyệt Kỳ. Lúc ấy Vua Bình Sa có một vị Đại Thần vì phạm tội bị bãi chức đầy đến ở vùng núi phía Nam cách nước hơn ngàn dặm. Đây là nơi không người lai vãng, ngũ cốc xác xơ.
Đại Thần đến đó ít lâu, không ngờ xuất hiện suối nước tràn trề, đất đai màu mỡ, ngũ cốc sung túc. Những người nghèo đói các nơi đổ về đây sinh sống, trong vòng mấy năm đã có ba bốn ngàn gia đình. Ai đến đều được cấp cho ruộng đất làm ăn.
Một hôm, có ba vị Trưởng Lão bàn với nhau: Nước không có Vua như thân không có đầu. Nên cùng đến chỗ Đại Thần, đề cử ông lên làm Vua.
Vị Đại Thần trả lời các Trưởng Lão: Nếu muốn lập tôi lên làm Vua phải đúng pháp như các Quốc Vương: Tả hữu có Đại Thần hầu cận, văn võ tướng sĩ có phẩm trật trên dưới.
Mọi người phải tuân theo lễ pháp triều. Lại phải tuyển các thiếu nữ nhập cung và nhân dân phải nộp tô thuế, lúa thóc, vải vóc.
Các quốc lão nói: Xin làm theo như thế. Rồi họ một mực theo Vương Pháp, lập Đại Thần lên ngôi, sắp đặt Quần Thần văn võ trên dưới, phát động nhân dân xây cất thành quách, kiến tạo cung điện. Từ đó nhân dân khốn khổ, không còn cảnh an cư lạc nghiệp. Mọi người vì quá khổ cực nên muốn đảo chính soán ngôi.
Các gian thần bày mưu đưa Vua đi săn. Ra ngoài thành chừng ba bốn mươi dặm có một cánh đồng trống, họ trói Vua lại định giết.
Vua hỏi các cận thần: Sao các ông lại giết ta?
Họ đáp: Nhân dân nếu no ấm hạnh phúc sẽ lấy lễ thờ Vua. Còn nhân dân nghèo đói sẽ nổi loạn lật đổ Vương quyền.
Vua bảo: Chuyện này là do các khanh làm, không phải tại ta. Nếu giết oan ta thần minh sẽ biết. Hãy cho ta phát một lời nguyện, dù chết cũng can tâm.
Vua liền nguyện: Tôi vốn khai hoang tạo ruộng để nuôi dân. Ai đến sinh sống đều an cư lạc nghiệp. Rồi họ tự động suy tôn tôi lên ngôi Vua, chiếu theo pháp Vua các nước khác mà sắp đặt, làm ra mọi việc như thế.
Nay họ trở lại giết tôi. Tôi thật không có tội với nhân dân. Nếu tôi chết nguyện sẽ làm quỷ La Sát nhập vào thân cũ để trả thù này.
Vua nguyện xong, bị cận thần lấy dây xiết cổ chết, bỏ thây ở đó rồi đi. Ba ngày sau, thần thức Vua làm quỷ La Sát nhập vào thân cũ, tự xưng là A La Bà.
Quỷ vào cung dung dây xiết cổ tân vương và giết sạch các gian thần cũng như thể nữ. La Sát vẫn còn giận ra khỏi cung định bắt giết dân chúng.
Ba vị quốc lão thấy vậy tự trói ra đầu thú trước La Sát, thưa: Đây là việc làm của gian thần, dân đen nào có biết gì. Xin Ngài hãy rộng lòng tha thứ, trở về làm Vua lại.
La Sát bảo: Ta đã là La Sát, đâu có thể sống làm việc chung với người. Ta ăn thịt uống máu người, tánh thường hay phẫn nộ bất kể chuyện gì.
Ba vị quốc lão nói: Nước này do Ngài mà có, nên xin Ngài hãy làm Vua lại như cũ. Còn việc ăn uống chính chúng tôi sẽ lo. Từ đó, các quốc lão lập ra quy định: Nhân dân phải rút thăm lấy số thứ tự, nhà nào có con theo thứ tự nộp cho Vua La Sát ăn.
Trong ba bốn ngàn hộ gia đình, có một nhà là đệ tử Phật, tinh tấn phụng trì Ngũ Giới không phạm. Ông theo mọi người rút thăm trúng phải số thứ nhất, phải nộp đứa con nhỏ duy nhất của mình cho Vua La Sát ăn trước hết.
Cả nhà buồn thương than khóc, hướng vọng về núi Kỳ Xà Quật đảnh lễ sám hối nghiệp tội của mình.
Đức Phật với đạo nhãn thấy hết nỗi thống khổ này, tự bảo: Nhờ nơi đứa bé này ta sẽ độ được vô số người. Ngài liền một mình bay đến cửa cung điện Vua La Sát, hiện tướng quang minh soi sáng nội cung.
La Sát thấy hào quang nghi là dị nhân bèn ra gặp Phật. La Sát thấy Đức Phật liền khởi độc tâm định xông đến ăn thịt. Hào quang Phật chiếu vào mắt, bao nhiêu thần lực của La Sát đều tiêu tan, trở nên yếu đuối phải chịu hàng phục.
La Sát thỉnh Phật lên tòa ngồi, còn mình quỳ dưới đảnh lễ. Đức Phật vì La Sát thuyết pháp. La Sát nhất tâm nghe, tin hiểu rồi thọ Ngũ Giới làm Ưu Bà Tắc.
Lúc ấy, viên quan tống thực mang đứa bé đến cho Vua La Sát ăn. Cả nhà đứa bé đều than khóc đi theo. Vô số người đi theo lấy làm đau xót. Viên quan ôm đứa bé trao cho Vua La Sát.
Vua La Sát đón lấy đứa trẻ, rồi quỳ trước Phật bạch: Đứa bé này do quốc dân theo thứ tự đưa đến cho con ăn. Nay con đã thọ Ngũ Giới của Phật nên không ăn thịt nó nữa. Con xin cúng nó cho Đức Phật làm thị đồng hầu hạ.
Đức Phật nhận đứa bé rồi chú nguyện chúc lành. La Sát hoan hỷ đắc quả Tu Đà Hoàn. Đức Phật đặt đứa bé vào bát rồi mang ra khỏi cung về nhà cha mẹ của nó.
Đến nơi, Ngài bảo: Hãy nuôi đứa bé đừng đau buồn nữa. Mọi người trông thấy Đức Phật hết sức kinh ngạc không biết là vị Thần nào. Đứa bé này nhờ phước gì mà được cứu thoát khỏi làm thức ăn cho La Sát.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn đứng giữa mọi người nói kệ:
Giới đức chỗ nhờ cậy
Phước báo sẽ theo ta
Thấy pháp thành bậc thượng
Ba đường ác tránh xa.
Trì giới: hết khổ lo
Phước: Ba cõi tôn quý
Quỷ thần ác độc tà
Không hại kẻ trì giới.
Đức Phật nói kệ xong, vô số người thấy hào quang của Phật liền biết là bậc Chí Tôn trong tam Giới. Họ đều xin quy y làm đệ tử, nghe kệ hoan hỷ, đều tỏ ngộ được đạo.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba