Phật Thuyết Kinh Nhân Quả Trong đời Quá Khứ Và Hiện Tại - Phần Ba
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cầu Na Bạt Đà La, Đời Lưu Tống
PHẬT THUYẾT
KINH NHÂN QUẢ TRONG ĐỜI
QUÁ KHỨ VÀ HIỆN TẠI
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Cầu Na Bạt Đà La, Đời Lưu Tống
PHẦN BA
Đến ngày ấy, Quốc Vương các nước khác và các Đạo Sĩ Bà La Môn đều tụ hội đông đảo. Hoàng Cung lúc bấy giờ được trang hoàng rực rỡ, treo dựng phướn, lọng, đốt hương, rải hoa, cử chuông trống, tấu các khúc nhạc hay, dùng bình thất bảo đựng nước bốn biển.
Các Tiên Nhân, mỗi vị đều đội bình nước trao cho các Đạo Sĩ Bà La Môn, các vị Bà La Môn chuyền bình nước trong chúng rồi trao cho các vị Đại Thần. Các quan đều đội bình nước trao cho Nhà Vua.
Khi ấy Nhà Vua rưới nước lên đầu và trao ấn thất bảo cho Thái Tử, kế đó truyền đánh trống lớn, xướng lớn: Nay lập Tát Bà Tất Đạt làm Thái Tử.
Nơi không trung lúc đó Tám Bộ Chúng Trời, Rồng… đều tấu nhạc đồng thanh ca ngợi: Lành thay! Đúng vào lúc Bồ Tát lên ngôi Thái Tử, tại thành Ca Tỳ La, tám vị Vua của nước khác cũng lập Thái Tử.
Một hôm, Thái Tử xin Vua cha ra ngoài thành du ngoạn. Đức Vua bằng lòng, cùng Thái Tử và Quần Thần lần lượt ra thành đến thăm khu đất canh tác của hoàng gia. Đi tới cội cây Diêm phù, Thái Tử dừng lại đứng xem nông phu cày ruộng.
Bấy giờ vị Thiên Tử ở Cõi Trời Tịnh Cư hóa thân thành trùng đất bị những con chim sà theo luông cày mổ ăn.
Thái Tử thấy cảnh ấy, khởi niệm từ bi thương xót: Chúng sinh thật đáng thương, loài này ăn thịt loài kia.
Rồi Thái Tử chìm trong suy nghĩ: àm thế nào để xa rời cõi ái dục. Tâm Thái Tử định tĩnh đi vào Tứ Thiền. Ánh dương quang chuyển dời, nhưng cây Diêm Phù vội uốn cành phủ lá che mát cho Thái Tử không rời.
Lúc đó Nhà Vua không thấy Thái Tử liền tìm kiếm khắp nơi, hỏi các quan, một vị Thần thưa với Nhà Vua: Thái Tử đang ngồi dưới bóng cây Diêm Phù, Vua liền cùng các quan đến đó. Chưa đến nơi, từ xa, Đức Vua đã thấy Thái Tử ngồi nhập định dưới bóng cây, tuy Trời chiều nhưng bóng cây không di chuyển, vẫn che cho Thái Tử làm Nhà Vua vô cùng kinh ngạc.
Vua cha bước đến cầm tay Thái Tử hỏi: Sao con lại ngồi nơi đây?
Thái Tử đáp: Con xem thấy các loài chúng sinh ăn thịt nhau, thật là đáng thương. Vua nghe lời ấy, trong lòng lo sợ Thái Tử xuất gia, liền nghĩ tới việc phải cưới vợ cho Thái Tử để Thái Tử vui mà quên nghĩ ngợi. Nhà Vua truyền bảo con trở về cung, nhưng Thái Tử lại tỏ ý muôn ở lại.
Vua liên tưởng đến lời Tiên A Tư Đà nên rơi nước mắt, khuyên Thái Tử nên về. Thấy Vua cha có vẻ buồn bã, Thái Tử thuận theo cha trở về. Nhà Vua luôn nghĩ đến việc Thái Tử sẽ xuất gia nên truyền tăng thêm số kỹ nữ để làm vui lòng Thái Tử.
Năm Thái Tử mười bảy tuổi, Vua triệu tập các quan để bàn việc hôn nhân của Thái Tử. Các quan tâu có một người Bà La Môn họ Thích tên là Ma Ha Na Ma sinh được người con gái là Da Du Đà La dung nhan xinh đẹp, tính nết đoan trang, lại thông minh, trí tuệ, tài đức hơn người, rất xứng đôi với Thái Tử. Vua nghe xong bảo nếu thế thì nên cưới cho Thái Tử.
Vua liền vào nội cung cho gọi một cung nhân lanh lợi thông minh đến nhà trưởng giả Ma Ha Na Ma để xem xét dung mạo và Đức Hạnh của nàng ấy.
Vị cung nữ theo lệnh đến nhà vị Trưởng Giả trong bảy ngày quan sát kỹ nàng Da Du Đà La rồi về tâu với Vua: Thần xem nàng ấy dung mạo xinh đẹp, nết na đoan trang, đi đứng uy nghi, thật ít có ai bằng!
Vua nghe thế rất mừng, lập tức sai người đến nói với trưởng giả Ma Ha Na Ma: Nay Thái Tử đã trưởng thành, Nhà Vua muốn cưới vợ cho Ngài. Đức Vua nghe các quan trong triều đều khen ngợi con gái của ông, Nhà Vua rất vừa ý nên sai tôi đến đây để bàn việc hôn sự.
Ma Ha Na Ma đáp: Xin tuân sắc chỉ của Đức Vua. Vua liền sai các quan chọn ngày lành rồi truyền đưa một vạn cỗ xe đến để rước dâu.
Khi rước Da Du Đà La về cung, Nhà Vua cho tổ chức đầy đủ các nghi thức hôn sự và cũng cho tăng thêm kỹ nữ ngày đêm ca múa làm vui lòng Thái Tử.
Thái Tử tuy cùng vợ đi, đứng, nằm, ngồi không rời, nhưng hoàn toàn không vướng ý tình thế tục, đêm nào Thái Tử cũng chỉ tu tập thiền quán. Vua thường dò hỏi các thể nữ về đời sống vợ chồng của Thái Tử.
Các thể nữ đều tâu: Không thấy Thái Tử có cử chỉ gì tỏ ra là đạo vợ chồng. Vua nghe thế lại càng sầu não, vội truyền các cung nữ bày thêm nhiều thú vui hơn nữa cho Thái Tử. Trải qua một thời gian, Thái Tử vẫn tuyệt nhiên không gần gũi vợ nên Nhà Vua có ý nghi ngờ, lo Thái Tử không có khả năng nam nhi.
Một hôm, Thái Tử nghe các thể nữ ca vịnh phong cảnh xinh tươi của khu vườn rừng với nhiều cây cối, hoa lá sum suê, suối khe trong mát nên muốn ra thành, đến đó thưởng ngoạn, liền sai thể nữ tâu Vua là Ngài ở trong cung cấm đã lâu, nay muốn được ra thành du ngoạn.
Vua nghe tâu trong lòng rất vui mừng nhưng rồi lại nghĩ: Thái Tử ở trong cung, không vui thích với đời sống vợ chồng nên mới xin ra ngoài du ngoạn mà thôi!
Vua truyền lệnh cho các quan dọn dẹp đường phố, sửa sang hoa viên thật sạch đẹp. Khi Thái Tử đến lễ Vua cha xin phép đi du ngoạn, Vua liền sai một vị cựu thần thông minh, giỏi tài biện luận theo hầu Thái Tử. Thái Tử cùng các quan tùy tùng ra khỏi cửa thành phía Đông.
Dân chúng trong nước nghe Thái Tử ra thành du ngoạn nên tụ hội đứng xem dày đặc như thể mây Trời.
Lúc ấy vị Thiên Tử Cõi Trời Tịnh Cư hóa thân thành một cụ già tóc bạc, lưng khòm chống gậy lê bước đi, Thái Tử thấy thế liền hỏi người hầu: Đó là người gì vậy?
Người hầu thưa: Đó là một người già.
Thái Tử liền hỏi: Sao gọi là già?
Người hầu thưa: Người ấy trước đây từng là một đứa trẻ lớn dần lên theo năm tháng, đến nay thân thể đã già cỗi, sắc hình suy nhược, tàn phai, ăn uống thật khó khăn, sức lực đã yếu nên đứng ngồi cũng rất khó khăn, không còn sống bao lâu nữa nên gọi là già.
Thái Tử lại hỏi: Chỉ có một mình ông ta như thế hay tất cả mọi người đều như vậy?
Thưa: Tất cả mọi người đều sẽ phải như thế cả.
Thái Tử nghe trả lời như vậy, lòng buồn rầu suy nghĩ: Ngày tháng qua mau, già đến nhanh như chớp. Thế thì thân này đâu có gì chắc chắn.
Ta tuy giàu sang cũng đâu thể nào thoát được, sao người đời vẫn không lo sợ?
Từ trước tới nay, Thái Tử vốn không ham thích cuộc sống phàm tục, nay nghe điều ấy lại càng nhàm chán, muốn lìa xa cõi đời, liền cho quay xe về cung mà trong lòng buồn lo, không vui.
Vua nghe biết việc ấy càng lo sợ Thái Tử xuất gia nên truyền lệnh cho các cung nữ tăng thêm những trò ca múa để làm khuây lòng Thái Tử. Một thời gian sau, Thái Tử lại xin ra ngoài du ngoạn.
Vua nghe tâu trong lòng lo âu, thầm nghĩ: Lần trước dạo chơi, Thái Tử đã gặp một người già nên trong lòng buồn bã, không vui, sao nay lại xin đi dạo nữa?
Nhưng vì thương con nên Vua không nỡ từ chối, liền triệu tập các quan đến truyền lệnh: Lần trước Thái Tử rời cửa thành phía Đông đi dạo đã gặp một người già nên trở về cung lòng buồn bực. Nay Thái Tử lại muốn dạo chơi nữa, trẫm không thể không bằng lòng. Các khanh có ý gì hãy tâu cho trẫm rõ.
Các quan tâu xin ra lệnh cho các quan địa phương chuẩn bị thật chu đáo, trang nghiêm, sửa sang, dọn sạch đường sá, treo cờ, rải hoa, đốt hương và không cho bất cứ thứ gì dơ uế, không sạch và người già cả hay bệnh hoạn nào lảng vảng trên đường.
Ở phía Nam ngoài thành Ca Tỳ La lúc ấy có một khu vườn, cây cối xanh tươi đang ra hoa, kết trái. Lại có ao tắm và lầu ngoạn cảnh, khung cảnh vô cùng trang nhã, xinh đẹp không đâu bằng.
Vua truyền hỏi các vị Đại Thần: Phong cảnh của khu vườn ở ngoài thành có gì đặc biệt?
Các quan đáp: Toàn cảnh quan của khu vườn đó rất đẹp như khu vườn Hoan Hỷ của Đế Thích.
Vua truyền các quan hãy đưa Thái Tử ra cửa thành phía Nam. Khi Thái Tử và quan quân theo hầu vừa ra khỏi thành, vị Trời Tịnh Cư lại hóa thân thành một người bệnh, thân thể xấu xí, chỉ còn da bọc xương, bụng trướng to, hơi thở khò khè, sắc mặt nhợt nhạt xanh xao, không thể tự đi được nên có hai người dìu đỡ đứng ở bên đường.
Thái Tử nhìn thấy liền hỏi: Đó là người gì?
Người hầu trả lời: Đó là một người bệnh.
Thái Tử lại hỏi: Sao gọi là bệnh?
Tâu: Thường thì bệnh đều bởi lòng tham mà ra, ăn uống không điều độ, bốn đại không quân bình nên sinh ra bệnh, thân thể đau nhức, khí lực yếu đuối, ăn uống khó khăn, ngủ nghỉ không yên, dù có chân tay nhưng không thể tự làm gì được, đi đứng ngồi nằm đều phải nhờ người khác giúp.
Nghe thế Thái Tử buồn bã hỏi: Chỉ có người ấy bệnh hay ai cũng mắc bệnh?
Thưa: Tất cả mọi người, không phân sang hèn đều có thể mắc bệnh.
Thái Tử nghe thế liền suy nghĩ: Như vậy nỗi khổ vì bệnh tật không chừa một ai, thế mà sao người đời lại cứ ham vui không sợ. Nghĩ xong, Thái Tử trong lòng càng lo sợ, thân tâm rúng động như thủy triều dâng lên khi trăng tròn.
Thái Tử nói với người hầu cận: Thân này như vậy chính là nơi tụ họp của các nỗi khổ. Người đời ngu si không biết, cứ mãi vui say hoan lạc. Hãy quay về. Ta làm sao còn tâm trí để dạo chơi, ngoạn cảnh vườn hoa nữa. Đoàn xa giá đưa Thái Tử hồi cung, về đến cung Thái Tử luôn suy nghĩ, âu sầu.
Vua hỏi những người tùy tùng: Hôm nay Thái Tử ra thành dạo chơi có vui không?
Người hầu thưa: Vừa ra khỏi cửa thành phía Nam, Thái Tử gặp một người bệnh nên lòng Ngài không vui, truyền lệnh lập tức quay xe về.
Vua nghe tâu lại càng lo sợ Thái Tử xuất gia, lập tức truyền gọi các quan đến quở trách: Lần trước Thái Tử ra cửa thành phía Đông đã gặp một người già nên trong lòng sầu não, không vui.
Ta đã ra lệnh cho các khanh dọn dẹp đường sá, không cho những người già bệnh đến gần, sao lại có người bệnh ở đó để Thái Tử trông thấy?
Các quan tâu: Chúng thần vâng lệnh Đại Vương, đã cùng các quan địa phương chuẩn bị rất kỹ, luân phiên thay nhau kiểm tra, không để cho bất cứ người già, bệnh hay hiện tượng dơ, xấu, không đẹp mắt ở hai bên đường nhưng không biết người bệnh kia bỗng từ đâu xuất hiện. Đó chẳng phải là tội của chúng thần. Xin Đại Vương minh giám.
Vua hỏi các quân hầu nhưng họ đều không biết người bệnh đó từ đâu đến. Khi ấy Nhà Vua càng lúc càng lo sợ Thái Tử xuất gia nên truyền cho các cung nữ bày nhiều trò vui cho Thái Tử vơi sầu, cố ý ràng buộc Thái Tử chìm đắm trong khoái lạc năm dục. Lúc đó có một người Bà La Môn tên Ưu Đà Di là người rất thông tuệ, giỏi biện luận.
Vua cho triệu người ấy vào cung bảo: Thái Tử hiện nay không vui thích cuộc sống thọ hưởng năm dục ở đời. Trẫm chỉ sợ không bao lâu, Thái Tử sẽ xuất gia, học đạo. Khanh hãy kết thân để khuyên Thái Tử không nên xuất gia.
Ưu Đà Di tâu: Thái Tử thông minh học rộng, biện tài không ai bằng.
Thần chưa thấy ai có thể sánh ngang với Thái Tử, làm thế nào thần có thể thuyết phục Thái Tử được?
Điều ấy chẳng khác gì dùng sợi chỉ mà lật đổ núi Tu Di. Thần cũng như thế, quyết không thể lay chuyển được ý chí của Thái Tử.
Nay Đại Vương đã truyền lệnh cho thần kết bạn thân với Thái Tử thật đúng là điều đang ao ước bấy lâu nay của thần.
Từ đó Ưu Đà Di luôn theo gần Thái Tử cả khi đi đứng nằm ngồi. Còn Nhà Vua thì truyền tuyển những cung nữ có nhan sắc xinh đẹp, lại thông minh, giỏi ca múa, có sức mê hoặc lòng người, trang điểm thật lộng lẫy để theo hầu Thái Tử.
Đến một ngày kia Thái Tử lại xin Vua cha ra ngoài du ngoạn, Vua suy nghĩ: Nay có Ưu Đà Di làm bạn, nếu Thái Tử có đi dạo chơi chắc là khác trước, không sợ Thái Tử sinh tâm chán cõi đời, muốn xuất gia.
Nghĩ thế nên Vua bằng lòng, và lại triệu tập các quan đến ra lệnh: Nay Thái Tử lại muốn ra ngoài thành du ngoạn, ta không nỡ không cho. Hai lần trước, Thái Tử ra cửa thành phía Đông và phía Nam đều gặp người già, người bệnh nên buồn rầu quay xe về. Nay cho đi cửa thành phía Tây trẫm lại sợ gặp có điều gì không vui, nhưng có Ưu Đà Di làm bạn thân, hy vọng khác trước.
Các khanh hãy cho sửa sang đường sá, các khu lâm viên, đài quán thật trang nghiêm. Chuẩn bị sắp xếp phan lọng, hương hoa nhiều hơn lần trước và tuyệt đối không cho những người già cả, bệnh tật đi trên đường.
Vua lại cho đoàn kỹ nữ xinh đẹp đến vườn hoa trước và lại bảo Ưu Đà Di: Nếu dọc đường có những gì không vui thì ngươi phải cố biện luận sao cho Thái Tử không ưu sầu nữa.
Vua lại truyền dặn các quan đi theo phải luôn xem chừng, hễ thấy người già xấu xí lập tức xua đuổi đi nơi khác ngay.
Khi ấy Thái Tử và Ưu Đà Di cùng các quan hầu đốt hương, tung hoa, tấu nhạc ra khỏi cửa thành phía Tây.
Bấy giờ vị Trời Tịnh Cư suy nghĩ: Hai lần trước ta hóa thân thành người già, người bệnh ai cũng trông thấy, nên Vua Bạch Tịnh giận dữ quở trách các quan. Nay ta hóa ra người chết sao cho chỉ một mình Thái Tử và Ưu Đà Di thấy thôi để các quan khỏi bị quở trách xử tội.
Nghĩ rồi, Trời Tịnh Cư liền hóa thành xác người chết có bốn người đẩy xe, trên xác có thắp hương rải hoa, có người nhà già trẻ khóc lóc tiễn đưa.
Lúc Thái Tử trông thấy cảnh ấy liền hỏi Ưu Đà Di: Đó là vật gì mà có hương hoa rải trên, lại có người khóc lóc đưa tiễn?
Ưu Đà Di vì có lệnh Vua nên im lặng không trả lời.
Thái Tử hỏi đến ba lần, vị Trời Tịnh Cư dùng thần lực làm cho Ưu Đà Di tự nhiên thốt lên: Đó là người chết.
Thái Tử lại hỏi: Sao gọi là chết?
Ưu Đà Di thưa: Chết tức là thân xác không còn, sức lực, thần thức rời khỏi thân thể, các căn ngưng hoạt động, không còn biết gì nữa.
Người đó khi còn sống ở đời, tham luyến năm dục, khổ sở làm lụng, chỉ biết lo chứa giữ tiền của mà không hay khi vô thường đến phải chết đi, trong phút chốc rời bỏ tất cả, lại làm cho cha mẹ bà con thân thuộc buồn khổ.
Con người khi chết rồi thì giống như cây cỏ, ân tình tốt xấu không còn dính líu nữa. Quả thật chết thật là đáng buồn.
Thái Tử giật mình hỏi Ưu Đà Di: Chỉ có người ấy chết hay tất cả mọi người đều phải chết?
Thưa: Tất cả sinh vật trên thế gian này đều phải như thế cả. Dẫu sang giàu hay nghèo hèn đều không ai tránh khỏi.
Thái Tử vốn là người trầm tĩnh nhưng nghe xong cũng cảm thấy bất an liền nói nhỏ với Ưu Đà Di: Thế gian lại còn có nỗi khổ là cái chết, vậy sao mọi người sống trong nỗi khổ đó vẫn cứ buông lung, lòng như gỗ đá, không biết sợ hãi.
Nói xong liền bảo đánh xe quay về, người đánh xe thưa: Hai lần trước đi chơi nữa chừng quay về nên khiến Đức Vua rất giận dữ quở trách, nay chúng tôi đâu dám quay về.
Khi ấy Ưu Đà Di nói với người đánh xe: Nếu ngươi không dám quay về thì cứ đánh xe đi đến vườn hoa. Khi Thái Tử và đoàn người đến nơi, trong vườn đã được sắp xếp, chuẩn bị trang nghiêm hương, hoa, lọng, lại có tấu nhạc.
Các nàng kỹ nữ xinh đẹp như thể nữ ở Cõi Trời đến trước Thái Tử dập dìu ca múa để làm rung động lòng Thái Tử nhưng lòng Thái Tử vẫn thản nhiên không động.
Thái Tử truyền lệnh cho các thị vệ đứng ngoài, một mình đi đến ngồi thẳng lưng suy nghĩ dưới bóng mát một cội cây trong vườn. Thái Tử nhớ lần trước dưới bóng cây Diêm Phù, Ngài đã từng nhập định lìa xa các dục tưởng đạt đến Cõi Tứ Thiền.
Lúc ấy Ưu Đà Di đến trước Thái Tử thưa: Vua đã truyền lệnh cho tôi làm bạn với Thái Tử, không được xa rời là để khuyên giải Thái Tử.
Phàm làm bạn có ba điều: một là thấy bạn sai trái phải khuyên ngăn, hai là thấy bạn có điều tốt thì vui mừng theo bạn, ba là gặp nguy hiểm không bỏ nhau.
Nay tôi xin tỏ lời thành thực mong Thái Tử đừng quở trách. Các vị Vua xưa nay đều trước hưởng thú vui năm dục, sau mới xuất gia, thế sao Thái Tử lại định đoạn tuyệt thế gian.
Xin Thái Tử hãy như người xưa, đừng nên có ý định bỏ ngôi đi học đạo. Xin Thái Tử cứ thọ hưởng năm dục, nên có con để dòng Vương Tộc không bị tuyệt hậu.
Thái Tử đáp: Theo lời anh nói thì ta có làm gì tổn hại Quốc Gia đâu. Ta bảo năm dục không có gì vui là vì sợ sinh tử luân hồi nên không đắm say chúng.
Anh bảo các vị Vua xưa kia trước hưởng qua năm dục rồi sau mới xuất gia, nhưng nay các vị Vua ấy sinh ở nơi nào?
Vì đắm say năm dục nên sa vào địa ngục, hoặc vào ngạ quỷ hay súc sinh, hoặc ở Cõi Trời người, bị chuyển xoay khổ sở.
Chính vì vậy nên ta muốn tìm phương pháp xa lìa sinh lão bệnh tử. Nay vì sao anh lại khuyên ta thọ hưởng chúng.
Khi ấy Ưu Đà Di dù là kẻ biện tài giỏi nhưng vẫn không thuyết phục được Thái Tử nên đành trở về chỗ ngồi. Thái Tử bảo chuẩn bị xe ngựa trở về cung. Các cung nữ và Ưu Đà Di rất buồn, dung mạo của họ ảo não chẳng khác gì đang có tang người thân, về đến cung, Thái Tử tỏ ra buồn nhiều hơn những lần trước.
Vua Bạch Tịnh liền gọi Ưu Đà Di hỏi: Thái Tử hôm nay đi du ngoạn sao lại không vui?
Ưu Đà Di thưa: Ra khỏi thành không xa, Thái Tử và thần từ xa đã thấy một người chết không biết từ đâu đến, Thái Tử hỏi đó là vật gì, thần bỗng tự nhiên đáp đó là người chết.
Vua lại hỏi quan quân tùy tùng khác: Các ngươi có thấy người chết ở ngoài cửa thành phía Tây không?
Tất cả người trong đoàn đều trả lời: Chúng tôi không thấy.
Nghe thế Vua chợt hiểu ra, thầm nghĩ: Chỉ có Thái Tử và Ưu Đà Di thấy vậy là do sức của Chư Thiên, không phải là lỗi ở các quan, chắc là đúng như lời tiên A Tư Đà đã nói. Nghĩ thế nên Vua rất đau buồn, lại cho tăng thêm số kỹ nữ phục vụ Thái Tử.
Hàng ngày Vua đều cho người đến an ủi Thái Tử: Đất nước là của Thái Tử, sao người cứ mãi buồn khổ không vui. Vua còn truyền lệnh cho các kỹ nữ ngày đêm tìm mọi cách làm vui lòng Thái Tử.
Tuy Vua biết đó là uy lực của Chư Thiên, con người khó thể cưỡng lại được nhưng vì quá yêu con nên Vua không thể không ngăn cản Thái Tử.
Vua tự nghĩ: Thái Tử đã đi dạo ba cửa thành, chắc thế nào rồi cũng sẽ xin ra cửa thành phía Bắc đi dạo. Ta phải truyền lệnh dọn dẹp, trang trí cảnh vườn ở phía Bắc Kinh Thành thật rực rỡ, trang nghiêm lộng lẫy gấp bội các lần trước, không để một hình ảnh xấu xa nào ở đây. Nghĩ thế rồi, Vua truyền sai các quan thi hành việc ấy thật hoàn bị.
Vua lại khấn trong lòng: Nay Thái Tử du ngoạn ở cửa Bắc, cầu xin Chư Thiên chớ hiện ra những điều chẳng lành khiến Thái Tử buồn rầu, cầu nguyện xong.
Vua truyền lệnh cho người đánh xe: Nếu Thái Tử ra ngoài thành du ngoạn nên làm thế nào để Thái Tử thấy toàn những cảnh phồn vinh, mỹ lệ rực rỡ của người dân.
Một lần nữa, Thái Tử lại xin ra ngoài thành du ngoạn, Vua không nỡ chối từ nên truyền Ưu Đà Di và các quan hộ tống Thái Tử ra cửa thành phía Bắc. Khi đoàn người đã đến khu vườn, Thái Tử xuống ngựa để thị vệ đứng ngoài, đến an tọa dưới một bóng cây, trầm tư về nỗi khổ già, bệnh, chết trong cuộc đời.
Khi ấy vị Thiên Tử Cõi Trời Tịnh Cư hiện thân thành một vị Tỳ Kheo vận pháp phục, ôm bình bát, cầm tích trượng, mắt khép nhẹ nhìn xuống đất đi ngang trước Thái Tử.
Thái Tử nhìn thấy liền hỏi: Ông là ai?
Vị Tỳ Kheo đáp: Tôi là một Tỳ Kheo.
Thái Tử hỏi: Sao gọi là Tỳ Kheo?
Đáp: Tỳ Kheo là người phá được kết tặc phiền não, không thọ thân sau nên gọi là Tỳ Kheo. Trong thế gian, tất cả đều là vô thường, hư ảo, con đường tôi đang tu tập là Thánh đạo vô lậu, không say đắm trong sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, đạt giác ngộ hoàn toàn, đến được bờ giải thoát.
Nói xong, ngay trước Thái Tử vị hóa Tỳ Kheo hiện sức thần thông bay lên không mà đi. Lúc ấy, các quan quân theo hầu đều trông thấy.
Thái Tử sau khi thấy vị Tỳ Kheo ấy và nghe nói rõ về công đức của việc xuất gia, trong lòng vốn đã nhàm chán cảnh ham muốn ở đời nên cất tiếng hô lớn: Lành thay! Lành thay! Trong Cõi Trời người, chỉ có con đường đó là hơn hết. Ta nhất định tu học theo con đường ấy. Nói xong, Thái Tử truyền đánh xe quay về thành.
Lúc ấy lòng Thái Tử rất vui, tự nghĩ: Trước đây, ta thấy nỗi khổ của già, bệnh, chết, khiến ngày đêm lo sợ chúng bức bách. Nay gặp vị Tỳ Kheo làm cho tỏ ngộ, chỉ rõ con đường giải thoát. Nghĩ thế nên Thái Tử luôn tìm cách xuất gia.
Khi đoàn người hồi cung, Vua Bạch Tịnh liền hỏi Ưu Đà Di: Thái Tử hôm nay ra thành đi dạo có được vui không?
Ưu Đà Di thưa: Thái Tử trên đường đi không gặp điều gì không lành. Khi vào trong vườn, Thái Tử một mình đến ngồi dưới bóng cây thì từ xa trông thấy một người cạo bỏ râu tóc, thân khoác y Cà Sa, đến trước Thái Tử trò chuyện, trò chuyện xong thì bay lên hư không mà đi, không ai biết họ nói với nhau điều gì.
Sau đó Thái Tử truyền lệnh đánh xe trở về. Lúc ấy khuôn mặt Thái Tử rất vui vẻ, khi về đến cung mới sinh buồn rầu.
Vua Bạch Tịnh nghe những lời Ưu Đà Di tâu lòng sinh nghi ngờ, không biết đó là điềm gì nên càng lo buồn, thầm nghĩ: Thái Tử chắc sẽ bỏ nhà đi học đạo, vả lại Thái Tử cưới vợ đã lâu mà không có con. Nay ta phải bảo Da Du Đà La phải làm thế nào. Nếu không sẽ không người nối ngôi, lại phải đề phòng, kẻo Thái Tử đi lúc nào không biết.
Nghĩ thế rồi Vua liền đem những ý nghĩ đó bảo với Da Du Đà La. Da Du Đà La nghe Vua nói thẹn thùng im lặng và từ đó đi, đứng, nằm, ngồi không rời Thái Tử, còn Nhà Vua thì truyền tuyển những cung nữ thật xinh đẹp đến để làm vui lòng Thái Tử.
Năm Thái Tử được mười chín tuổi, Ngài suy nghĩ: Nay đúng là lúc Ta nên xuất gia tu tập. Nghĩ rồi liền đến chỗ Vua cha với thần thái ung dung, nghiêm trang như Trời Đế Thích đến gặp Trời Phạm Thiên.
Những quan hầu cận trông thấy Thái Tử đến vội vào trình tâu với Vua. Vua nghe tâu trong lòng nửa mừng nửa lo. Thái Tử đến gần cúi đầu lễ Vua cha, Nhà Vua liền đỡ Thái Tử lên và bảo Thái Tử ngồi.
Sau khi ngồi xuống, Thái Tử thưa Vua cha: Ân ái có hội hợp phải có chia ly. Cúi xin Phụ Vương cho con đi xuất gia học đạo. Tất cả mọi người khi yêu thương mà phải xa nhau sẽ rất đau khổ. Nay con muốn làm cho mọi người đều được giải thoát, xin Phụ Vương chấp thuận, đừng cản trở con.
Vua Bạch Tịnh nghe xong lời Thái Tử tâu, lòng rất đau khổ, khác nào núi Kim Cang xô ngã những núi khác, toàn thân run rẩy, không thể ngồi vững được. Vua cầm tay Thái Tử ứa lệ không nói nên lời.
Một lúc lâu sau, Vua mới cất giọng nghẹn ngào nói: Con nên bỏ ý định xuất gia đi, vì sao?
Vì tuổi con còn trẻ, nước nhà lại chưa có người nối dõi, giờ chỉ còn một mình cha, con nỡ nào lại bỏ ra đi. Thái Tử thấy Vua cha buồn bã khóc lóc, không ưng thuận nên quay về cung, suy nghĩ đến việc xuất gia mà buồn rầu không vui.
Bấy giờ các thầy tướng giỏi ở thành Ca Tỳ La đều đoán trong vòng bảy ngày nếu Thái Tử không xuất gia thì sẽ lên ngôi Chuyển Luân Thánh Vương cai trị bốn châu thiên hạ, bảy món báu sẽ tự nhiên hiện nên liền đến tâu Vua: Dòng họ Thích Ca nay sắp hưng thịnh.
Vua nghe thế rất vui, lập tức truyền lệnh cho các quan và các vị trong Thích tộc đến bảo: Các khanh có nghe lời tiên đoán của các tướng Sư không?
Vậy nay mọi người đều phải ngày đêm theo hầu, canh giữ Thái Tử. Ở bốn cửa thành, mỗi cửa phải bố trí một ngàn người canh giữ, khắp chu vi bên ngoài thành, cứ một do tuần phải đặt một đội quân canh phòng.
Nhà Vua còn truyền cho Da Du Đà La và các quan trong nội cung phải nên gia tăng canh phòng hơn nữa, suốt trong bảy ngày không để Thái Tử xuất gia. Vua lại đến cung của Thái Tử. Thái Tử thấy Vua cha đến liền ra nghinh tiếp, vấn an sức khỏe.
Vua nói với Thái Tử: Xưa kia Tiên A Tư Đà và nay các tướng Sư cũng nói là con nhất định không ưa thích sống trong cảnh trần tục, nhưng việc nối dõi tông đường rất quan trọng, Vương Tộc phải có người kế vị. Vậy cha xin con hãy sinh cho cha đứa cháu rồi hãy xuất gia. Con không nên trái ý cha.
Thái Tử nghe lời Phụ Vương nói xong, trong lòng suy nghĩ: Sở dĩ Vua cha không cho ta xuất gia chính là vì chưa có người nối ngôi.
Thái Tử liền thưa với Vua cha: Quý hóa thay lời dạy của Phụ Vương! Thái Tử liền dùng tay trái chỉ vào bụng Da Du Đà La. Vài ngày sau, Da Du Đà La thấy trong người khác lạ, biết là đã thọ thai. Vua nghe Thái Tử khen lệnh của mình nên rất vui mừng nghĩ rằng trong bảy ngày nữa nhất định chưa thể có cháu ngay được.
Nếu quá kỳ hạn bảy ngày tự nhiên Thái Tử sẽ lên ngôi Chuyển Luân Vương, hẳn là không còn ý định xuất gia nữa.
Lúc ấy Thái Tử suy nghĩ: Nay ta đã mười chín tuổi. Hôm nay là mùng bảy tháng hai chính là lúc ta phải tìm đường xuất gia, vả lại sở nguyện của Vua đã được đáp ứng.
Nghĩ thế xong Thái Tử từ thân phóng hào quang chiếu sáng Cung Điện của Tứ Thiên Vương và đến tận cung Trời Tịnh Cư, nhưng không để nhân gian trông thấy.
Bấy giờ Chư Thiên thấy ánh sáng ấy biết Thái Tử đã đến lúc xuất gia liền xuống chỗ Thái Tử, cung kính lễ và chắp tay thưa: Từ vô lượng kiếp Ngài đã phát nguyện tu hành, nay đã đến lúc xuất gia.
Thái Tử đáp: Đúng như lời các ông vừa nói, nay đã đến lúc ta xuất gia nhưng Phụ Vương đã ra lệnh bố trí từ trong cung đến ngoài thành đều có quan quân canh gác cẩn thận, muốn đi rất khó.
Chư Thiên thưa: Chúng tôi sẽ có cách để Thái Tử ra khỏi thành mà không ai hay. Chư Thiên liền dùng thần lực khiến quan quân ngủ say.
Bấy giờ Da Du Đà La trong giấc ngủ mộng thấy ba điềm: Một là thấy mặt trăng rơi xuống đất, hai là thấy răng rụng, ba là thấy mất cánh tay phải.
Da Du Đà La giật mình tỉnh giấc vô cùng lo sợ báo với Thái Tử: Thiếp vừa thấy ba giấc mộng dữ.
Thái Tử hỏi: Nàng mộng thấy những gì?
Da Du Đà La kể lại các giấc mộng ấy.
Thái Tử nói: Trăng vẫn ở trên Trời, răng nàng vẫn còn đó, tay nàng nào có mất. Nàng cần biết mộng mị đều là giả, không nên lo sợ.
Da Du Đà La vội thưa: Theo điềm mộng ấy, thiếp chỉ lo sợ Thái Tử sẽ xuất gia.
Thái Tử liền trấn an: Nàng hãy ngủ yên, đừng lo nghĩ về việc ấy, sẽ không có gì xấu đến với nàng đâu. Da Du Đà La nghe thế bèn yên tâm ngủ lại.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Pháp Tập Yếu Tụng - Phẩm Mười Ba - Phẩm Lợi Dưỡng
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Tế Tự
Phật Thuyết Kinh Nhân Quả Trong đời Quá Khứ Và Hiện Tại - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - ðại Kinh Bốn Mươi - Phần Ba - Chánh Tư Duy
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - Kinh Nghĩ Như Thế Nào?
Phật Thuyết Kinh Bách Dụ - Kinh Thứ Chín Mươi Bốn - Kinh Lỗ Hổng Ma Ni