Phật Thuyết Kinh Những điều Bồ Tát Hải ý Hỏi Về Pháp Môn Tịnh ấn - Phần Tám
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Duy Tịnh, Đời Triệu Tống
PHẬT THUYẾT KINH
NHỮNG ĐIỀU BỒ TÁT HẢI Ý
HỎI VỀ PHÁP MÔN TỊNH ẤN
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Duy Tịnh, Đời Triệu Tống
PHẦN TÁM
Này Hải Ý! Những Bồ Tát ấy đắc Tam Ma Địa Tịnh ấn, sau đạt được tám loại tướng đại thần thông bất cộng như thế rồi, có thể xuất sinh vô lượng việc công đức như vậy, tất cả đều đồng oai lực thần thông của Tam Ma Địa này.
Bấy giờ, Thế Tôn lặp lại bằng bài tụng:
Pháp này thiện, tịnh lại sáng trong
Vốn không hòa hợp, ngang hư không
Không trụ, không diệt, không sinh khởi
Ấn ấy tùy thâu vào Phật ấn.
Trụ căn bản kia được tổng trì
Tu tập lâu dài hành từ bi
Thế gian cung kính hoặc xem thường
Trong tuệ bình đẳng, không vui, giận.
Trí bình đẳng trụ trong pháp tánh
Không trụ trong si và pháp si
Tuy trụ trong trí tâm vô đắc
Trụ trí bình đẳng thường thanh tịnh.
Trí thuờng hiểu rõ việc thân làm
Dùng các trí làm lợi thế gian
Chúng sinh nếu thấy thân thanh tịnh
Đắc trí Phật thù thắng lìa cấu.
Oai nghi, giới thiện không tán loạn
Theo việc làm phân biệt hữu, vô
Tội lỗi của thân tuy vô tận
Xưa nay không sinh cũng không mất.
Đạt được thân diệu tướng trang nghiêm
Tay chân mềm mại, phước nghiêm trang
Các thân căn viên mãn thanh tịnh
Không ỷ sắc tướng do trí tạo.
Nếu thấy chúng sinh nghèo hèn khổ
Khiêm hạ cung kính chứ chẳng khinh
Tôn phụng người trì giới biết pháp
Nghe pháp ở họ được Thánh Đạo.
Thật biết pháp tánh thân mình, người
biết thật tánh thân của chúng sinh
Đắc Pháp Thân thắng diệu thanh tịnh
Chẳng thọ phần đoạn, thân lìa nhiễm.
Thường thọ thực thiền duyệt trong định
Chẳng dùng đoàn thực, thêm oai quang
Thuận đời thọ thực, chẳng giúp sức
Pháp mạng nuôi dưỡng thành cam lồ.
Thuờng đạt hạnh Thánh, luôn tĩnh lặng
Giải thoát khối nhiễm tham, sân, si
Âm thầm hộ giới, không thuận nghịch
Thà bỏ thân mình, không tạo tội.
Dùng thần lực thường đến ức cõi
Tùy thân ứng hiện mà thuyết pháp
Thế gian chiêm ngưỡng thân diệu tướng
Họ đều đạt được thân cao đẹp.
Thân phóng quang minh diệu thanh tịnh
Chiếu khắp vô biên các Quốc Độ
Thắng phước chói sáng, xúc mềm mại
Trừ hết phiền não hại chúng sinh.
Chúng sinh địa ngục thường chịu khổ
Tiếp xúc hào quang được an vui.
Thân ý ung dung, khổ đau ngừng
Do đấy được lìa khổ địa ngục.
Như vậy cùng các thân nghiệp khác
Tùy trí thù diệu thiện vô biên.
Khai mở Phật Sự cửa điều phục
Bồ Tát thân nghiệp thanh tịnh ấy.
Ngôn ngữ diệu âm ý sạch vui
Trời người thế gian nghe đều thích.
Pháp đã nói ra đều như thật
Pháp này có thể thành cam lồ.
Ngôn ngữ lỗi lầm và đọa lạc
Phước trí thanh tịnh có thể đoạn.
Ngữ nghiệp và âm thanh chúng sinh
Khiến đồng đẳng khắp đều hoan hỷ.
Chân thật nói bình đẳng tương tục
Lời không đục loạn đều như thật.
Điều nói ra là hạnh thành thật
Trí theo sự thật thành thanh tịnh.
Lời nói ngọt ngào, tham chấm dứt
Gồm lời công đức giải thoát sân
Thâm diệu vô cùng, đoạn trừ si
Ở trong ngàn cõi làm thiện ích.
Nói ra lời này không phân biệt
Chẳng nhờ siêng năng mà giải thoát
Tùy căn chúng sinh, hoan hỷ sinh
Việc làm trí này lời thanh tịnh.
Khéo tu ý nghiệp thường vô chướng
Trong một sát na, biết khắp đời
Chẳng định khởi diệt, hiện oai nghi
Ma không thể biết y Bồ Tát.
Thanh Văn, Duyên Giác, chẳng thể lường
Ý đạo sâu xa của Bồ Tát
Chẳng sinh tâm tổn hại mình, người
Không cao, vô ngại, trí bình đẳng.
Bồ Tát thuận đời, khéo giác ngộ
Không thọ, không nghĩ, không quán sát
Không nhập diệt định, chứng môn lạc
biện tài vô biên, đủ tổng trì.
Nghe pháp, việc làm trí thường trụ
Niệm định không loạn trụ bình đẳng
Các chướng thanh tịnh, phiền não dứt
Hoàn toàn không thấy lỗi lầm nhỏ.
Pháp phần Bồ Đề lượng vô biên
Đều gồm thâu hết, lìa phóng dật
Trí thường tùy, trụ trong chỉ quán
Mười địa thứ bậc, nay chứng thành.
Cho đến cây đạo thành quả trí
Nếu đủ mười loại pháp thanh tịnh
Bồ Tát đắc định gọi tự thuyết
Hiện tu các hành tịnh viên mãn.
Tất cả đạo thiện tịnh, thù thắng
Tùy các quả vị, tịnh các độ
Tất cả pháp thiện thật thù thắng
Tướng hảo thượng diệu phước quả tròn.
Ngồi tràng bồ đề thiện tột cùng
Pháp nhiễm, oán sâu đều dứt hết
Chứa các pháp thiện bằng Tu Di
Thành tựu tịnh quang bất tư nghì.
Đắc định ấy là đạt phúc đức
Đủ hai mươi pháp là Tịnh ấn
Như Mặt Trời chiếu sáng thế gian
Chứng đại Bồ Đề thắng trí Phật.
Bồ Tát khi ngồi Đạo thọ rồi
Đắc tướng tám thần thông bất cộng
Ở trong trăm Quốc Độ của Phật
Thường rộng làm lợi lạc thế gian.
Chư Phật đều đến ban vô úy
Ngợi khen rất dũng mãnh tối thắng
Có thể hàng phục các ma quân
Chứng bồ đề thù thắng vô thượng.
Được thân tâm ấy thắng công đức
Quyết định thành tựu Phật ấn này
Nếu muốn tu môn công đức ấy
Với tâm bồ đề phải kiên dũng.
Bấy giờ, Thế Tôn lại bảo Đại Bo tát Hải Ý: Này Hải Ý! Vì duyên cớ ấy, nếu Bồ Tát muốn đắc pháp môn Tam Ma Địa tịnh ấn tự thuyết và tuệ vô cấu tự thuyết thì phải trụ nơi hai loại tâm.
1. Tâm không trược loạn.
2. Tâm không cấu bẩn.
Tâm không trược loạn là tự tánh của tâm thanh tịnh sáng suốt, không chấp chứa khách trần phiền não. Pháp tánh thường trú vốn tự sáng suốt, tất cả sự tác ý không có chỗ tích tập, vì không trần cấu nên lìa tham, vì không phân biệt nên lìa sân, vì vô ngã nên lìa si, hoàn toàn thanh tịnh, rốt ráo không cấu uế, quang minh tự tại.
Như chỗ giải thoát, tất cả pháp cũng vậy, vì an trú theo chân như bình đẳng. Như chỗ giải thoát, tất cả pháp cũng vậy, vì an trú theo pháp giới bình đẳng. Như chỗ giải thoát, tất cả pháp cũng vậy, vì an trú theo thật tế bình đẳng. Như chỗ giải thoát, tất cả pháp cũng vậy, vì an trú theo không bình đẳng, vì an trú theo vô tướng, vô nguyện, vô tạo, vô tác, vô sinh, vô khởi bình đẳng.
Như chỗ giải thoát, pháp hữu vi cũng vậy, vì an trú theo pháp vô vi bình đẳng, tức là pháp bình đẳng tùy trú này không tụ, không tan, chẳng phải là chỗ biết của trí, đây gọi là tâm khong trược loạn, tức là dùng pháp này vì chúng sinh và Bổ Đặc Già La khác mà hiển bày khai thị. Đối với pháp tự tha không khởi loạn động, đây tức là tâm không cấu bẩn.
Này Hải Ý! Đầy đủ tâm không trược loạn, tâm không cáu bẩn đó tức là có thể đạt đến môn Tam Ma Địa tịnh ấn tự thuyết.
Bấy giờ, Hải Ý Bồ Tát bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Tam Ma Địa này hết mực sâu xa.
Phật nói: Không đạt đến chỗ tột cùng.
Hải Ý lại thưa: Bạch Thế Tôn! Tam Ma Địa này rất khó gặp!
Phật nói: Vì lìa hai pháp.
Lại thưa: Bạch Thế Tôn! Tam Ma Địa này rất khó hiểu.
Phật nói: Vì vô ngã và ngã sở.
Lại thưa: Bạch Thế Tôn! Tam Ma Địa này rất khó biết.
Phật nói: Vì biết hai pháp thức và trí đều bình đẳng.
Lại thưa: Bạch Thế Tôn! Tam Ma Địa này không trược loạn.
Phật nói: Vì đắc giải thoát vô ngại.
Lại thưa: Bạch Thế Tôn! Tam Ma Địa này rất vi diệu.
Phật nói: Vì lìa các ví dụ.
Lại thưa: Bạch Thế Tôn! Tam Ma Địa này rất tinh thật.
Phật nói: Vì đắc trí Kim Cang dụ.
Lại thưa: Bạch Thế Tôn! Tam Ma Địa này không hư hoại.
Phật nói: Vì trước sau không bị phá vỡ.
Lại thưa: Bạch Thế Tôn! Tam Ma Địa này không đắm chấp.
Phật nói: Vì siêu vượt tất cả tham đắm vướng mắc.
Lại thưa: Bạch Thế Tôn! Tam Ma Địa này đắc quang minh lớn.
Phật nói: Vì lìa các sự tăm tối.
Lại thưa: Bạch Thế Tôn! Tam Ma Địa này rất thanh tịnh.
Phật nói: Vì rốt ráo không nhiễm ô.
Lại thưa: Bạch Thế Tôn! Tam Ma Địa này bản tánh vô cấu.
Phật nói: Vì lìa mọi tham trần.
Lại thưa: Bạch Thế Tôn! Tam Ma Địa này không có chốn hành.
Phật nói: Vì Ba Cõi không hành.
Lại thưa: Bạch Thế Tôn! Tam Ma Địa này không hý luận.
Phật nói: Vì siêu việt hý luận.
Lại thưa: Bạch Thế Tôn! Tam Ma Địa này không động.
Phật nói: Vì rốt ráo vắng lặng.
Lại thưa: Bạch Thế Tôn! Tam Ma Địa này thuận nhập hết thảy xứ.
Phật nói: Vì ngang bằng với hư không.
Bấy giờ, Bồ Tát Hải Ý lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu như thế thì làm sao có thể phát khởi thắng hạnh?
Làm thế nào để đạt được môn Tam Ma Địa tịnh ấn tự thuyết?
Phật nói: Này Hải Ý! Ví như có người muốn đánh nhau với hư không, khi ấy, đối với hư không kia bèn mang giáp mũ. Bồ Tát cũng như thế muốn đắc Tam Ma Địa tịnh ấn tự thuyết thì cần phải trang bị bằng giáp mũ các pháp bình đẳng.
Vì sao?
Này Hải Ý! Vì hễ có cái diệt liền có cái khởi.
Lại nữa, Hải Ý! Chủng tử thức là hữu vi, chủng tử vô biểu là vô vi. Tam Ma Địa này chẳng phải chỗ biết của nhãn thức, chẳng phải chỗ biết của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức. Tam Ma Địa này không thể biểu hiện, nên biết nó vô tri cũng chẳng phải vô tri. Tam Ma Địa này không có tướng biểu hiện, vì đối với tất cả pháp biết rõ bình đẳng, đây gọi là Chánh Đẳng Chánh Giác.
Lại nữa, Hải Ý! Vì ta không thấy có pháp nào là tướng nhiễm nên thành Đẳng Chánh Giác, cũng chẳng thấy có pháp nào là tướng tịnh nên thành Đẳng Chánh Giác. Nếu có tướng la nhiễm thì chính tướng ấy là tịnh, chỗ gọi là tướng thì tự tánh thanh tịnh. Nếu là tướng với tự tánh thanh tịnh tức là vô tướng.
Nếu là vô tướng tức là tướng vô hành. Nếu là tướng vô hành tức không có một pháp nhỏ nào có thể biểu hiện. Do không biểu hiện nên không biết được tất cả pháp. Nếu pháp không có chủ thể biểu hiện và đối tượng biểu hiện thì như vậy là không có văn tự ghi chép. Nếu không có văn tự ghi chép thì gọi là như.
Nhưng tại sao gọi là như?
Đó là đối với sau, trước, giữa cũng thế, tức tất cả pháp ba đời đều không.
Sao gọi là không?
Đó là vô tác, nghĩa là vô tác này cũng vô tác, cũng chẳng phải vô tác. Vì vậy, đây gọi là không.
Nói vô tác, nghĩa là gì?
Vô tác là không có các hành hiện tiền tạo tác, vì không có mảy may pháp nào có thể tạo tác, vì vậy đây gọi là vô tác.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Chư Hành Hữu Vi
Phật Thuyết Kinh đại Lâu Thán - Phẩm Mười Ba - Phẩm Trời đất Thành Hoại
Phật Thuyết Kinh Tăng Nhất A Hàm - Phẩm Mười Chín - Phẩm Khuyến Thỉnh
Phật Thuyết Kinh Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí Lạc - Phần Sáu
Phật Thuyết Kinh Khởi Thế - Phẩm Tám - Phẩm Tam Thập Tam Thiên - Tập Một
Phật Thuyết Kinh Vua Văn đà Kiệt
ĐỨC NHẪN NHỤC CHINH PHỤC SỰ TÀN ÁC
Phật Thuyết Kinh Chúng Hứa Ma đế - Phần Tám
Phật Thuyết Kinh đại Tập Những điều Bồ Tát Hư Không Tạng Hỏi Phật - Phần Một