Phật Thuyết Kinh Những điều Bồ Tát Hải ý Hỏi Về Pháp Môn Tịnh ấn - Phần Tám

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:04 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Duy Tịnh, Đời Triệu Tống

PHẬT THUYẾT KINH

NHỮNG ĐIỀU BỒ TÁT HẢI Ý

HỎI VỀ PHÁP MÔN TỊNH ẤN

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Duy Tịnh, Đời Triệu Tống  

PHẦN TÁM  

Này Hải Ý! Những Bồ Tát ấy đắc Tam Ma Địa Tịnh ấn, sau đạt được tám loại tướng đại thần thông bất cộng như thế rồi, có thể xuất sinh vô lượng việc công đức như vậy, tất cả đều đồng oai lực thần thông của Tam Ma Địa này.

Bấy giờ, Thế Tôn lặp lại bằng bài tụng:

Pháp này thiện, tịnh lại sáng trong

Vốn không hòa hợp, ngang hư không

Không trụ, không diệt, không sinh khởi

Ấn ấy tùy thâu vào Phật ấn.

Trụ căn bản kia được tổng trì

Tu tập lâu dài hành từ bi

Thế gian cung kính hoặc xem thường

Trong tuệ bình đẳng, không vui, giận.

Trí bình đẳng trụ trong pháp tánh

Không trụ trong si và pháp si

Tuy trụ trong trí tâm vô đắc

Trụ trí bình đẳng thường thanh tịnh.

Trí thuờng hiểu rõ việc thân làm

Dùng các trí làm lợi thế gian

Chúng sinh nếu thấy thân thanh tịnh

Đắc trí Phật thù thắng lìa cấu.

Oai nghi, giới thiện không tán loạn

Theo việc làm phân biệt hữu, vô

Tội lỗi của thân tuy vô tận

Xưa nay không sinh cũng không mất.

Đạt được thân diệu tướng trang nghiêm

Tay chân mềm mại, phước nghiêm trang

Các thân căn viên mãn thanh tịnh

Không ỷ sắc tướng do trí tạo.

Nếu thấy chúng sinh nghèo hèn khổ

Khiêm hạ cung kính chứ chẳng khinh

Tôn phụng người trì giới biết pháp

Nghe pháp ở họ được Thánh Đạo.

Thật biết pháp tánh thân mình, người

biết thật tánh thân của chúng sinh

Đắc Pháp Thân thắng diệu thanh tịnh

Chẳng thọ phần đoạn, thân lìa nhiễm.

Thường thọ thực thiền duyệt trong định

Chẳng dùng đoàn thực, thêm oai quang

Thuận đời thọ thực, chẳng giúp sức

Pháp mạng nuôi dưỡng thành cam lồ.

Thuờng đạt hạnh Thánh, luôn tĩnh lặng

Giải thoát khối nhiễm tham, sân, si

Âm thầm hộ giới, không thuận nghịch

Thà bỏ thân mình, không tạo tội.

Dùng thần lực thường đến ức cõi

Tùy thân ứng hiện mà thuyết pháp

Thế gian chiêm ngưỡng thân diệu tướng

Họ đều đạt được thân cao đẹp.

Thân phóng quang minh diệu thanh tịnh

Chiếu khắp vô biên các Quốc Độ

Thắng phước chói sáng, xúc mềm mại

Trừ hết phiền não hại chúng sinh.

Chúng sinh địa ngục thường chịu khổ

Tiếp xúc hào quang được an vui.

Thân ý ung dung, khổ đau ngừng

Do đấy được lìa khổ địa ngục.

Như vậy cùng các thân nghiệp khác

Tùy trí thù diệu thiện vô biên.

Khai mở Phật Sự cửa điều phục

Bồ Tát thân nghiệp thanh tịnh ấy.

Ngôn ngữ diệu âm ý sạch vui

Trời người thế gian nghe đều thích.

Pháp đã nói ra đều như thật

Pháp này có thể thành cam lồ.

Ngôn ngữ lỗi lầm và đọa lạc

Phước trí thanh tịnh có thể đoạn.

Ngữ nghiệp và âm thanh chúng sinh

Khiến đồng đẳng khắp đều hoan hỷ.

Chân thật nói bình đẳng tương tục

Lời không đục loạn đều như thật.

Điều nói ra là hạnh thành thật

Trí theo sự thật thành thanh tịnh.

Lời nói ngọt ngào, tham chấm dứt

Gồm lời công đức giải thoát sân

Thâm diệu vô cùng, đoạn trừ si

Ở trong ngàn cõi làm thiện ích.

Nói ra lời này không phân biệt

Chẳng nhờ siêng năng mà giải thoát

Tùy căn chúng sinh, hoan hỷ sinh

Việc làm trí này lời thanh tịnh.

Khéo tu ý nghiệp thường vô chướng

Trong một sát na, biết khắp đời

Chẳng định khởi diệt, hiện oai nghi

Ma không thể biết y Bồ Tát.

Thanh Văn, Duyên Giác, chẳng thể lường

Ý đạo sâu xa của Bồ Tát

Chẳng sinh tâm tổn hại mình, người

Không cao, vô ngại, trí bình đẳng.

Bồ Tát thuận đời, khéo giác ngộ

Không thọ, không nghĩ, không quán sát

Không nhập diệt định, chứng môn lạc

biện tài vô biên, đủ tổng trì.

Nghe pháp, việc làm trí thường trụ

Niệm định không loạn trụ bình đẳng

Các chướng thanh tịnh, phiền não dứt

Hoàn toàn không thấy lỗi lầm nhỏ.

Pháp phần Bồ Đề lượng vô biên

Đều gồm thâu hết, lìa phóng dật

Trí thường tùy, trụ trong chỉ quán

Mười địa thứ bậc, nay chứng thành.

Cho đến cây đạo thành quả trí

Nếu đủ mười loại pháp thanh tịnh

Bồ Tát đắc định gọi tự thuyết

Hiện tu các hành tịnh viên mãn.

Tất cả đạo thiện tịnh, thù thắng

Tùy các quả vị, tịnh các độ

Tất cả pháp thiện thật thù thắng

Tướng hảo thượng diệu phước quả tròn.

Ngồi tràng bồ đề thiện tột cùng

Pháp nhiễm, oán sâu đều dứt hết

Chứa các pháp thiện bằng Tu Di

Thành tựu tịnh quang bất tư nghì.

Đắc định ấy là đạt phúc đức

Đủ hai mươi pháp là Tịnh ấn

Như Mặt Trời chiếu sáng thế gian

Chứng đại Bồ Đề thắng trí Phật.

Bồ Tát khi ngồi Đạo thọ rồi

Đắc tướng tám thần thông bất cộng

Ở trong trăm Quốc Độ của Phật

Thường rộng làm lợi lạc thế gian.

Chư Phật đều đến ban vô úy

Ngợi khen rất dũng mãnh tối thắng

Có thể hàng phục các ma quân

Chứng bồ đề thù thắng vô thượng.

Được thân tâm ấy thắng công đức

Quyết định thành tựu Phật ấn này

Nếu muốn tu môn công đức ấy

Với tâm bồ đề phải kiên dũng.

Bấy giờ, Thế Tôn lại bảo Đại Bo tát Hải Ý: Này Hải Ý! Vì duyên cớ ấy, nếu Bồ Tát muốn đắc pháp môn Tam Ma Địa tịnh ấn tự thuyết và tuệ vô cấu tự thuyết thì phải trụ nơi hai loại tâm.

1. Tâm không trược loạn.

2. Tâm không cấu bẩn.

Tâm không trược loạn là tự tánh của tâm thanh tịnh sáng suốt, không chấp chứa khách trần phiền não. Pháp tánh thường trú vốn tự sáng suốt, tất cả sự tác ý không có chỗ tích tập, vì không trần cấu nên lìa tham, vì không phân biệt nên lìa sân, vì vô ngã nên lìa si, hoàn toàn thanh tịnh, rốt ráo không cấu uế, quang minh tự tại.

Như chỗ giải thoát, tất cả pháp cũng vậy, vì an trú theo chân như bình đẳng. Như chỗ giải thoát, tất cả pháp cũng vậy, vì an trú theo pháp giới bình đẳng. Như chỗ giải thoát, tất cả pháp cũng vậy, vì an trú theo thật tế bình đẳng. Như chỗ giải thoát, tất cả pháp cũng vậy, vì an trú theo không bình đẳng, vì an trú theo vô tướng, vô nguyện, vô tạo, vô tác, vô sinh, vô khởi bình đẳng.

Như chỗ giải thoát, pháp hữu vi cũng vậy, vì an trú theo pháp vô vi bình đẳng, tức là pháp bình đẳng tùy trú này không tụ, không tan, chẳng phải là chỗ biết của trí, đây gọi là tâm khong trược loạn, tức là dùng pháp này vì chúng sinh và Bổ Đặc Già La khác mà hiển bày khai thị. Đối với pháp tự tha không khởi loạn động, đây tức là tâm không cấu bẩn.

Này Hải Ý! Đầy đủ tâm không trược loạn, tâm không cáu bẩn đó tức là có thể đạt đến môn Tam Ma Địa tịnh ấn tự thuyết.

Bấy giờ, Hải Ý Bồ Tát bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Tam Ma Địa này hết mực sâu xa.

Phật nói: Không đạt đến chỗ tột cùng.

Hải Ý lại thưa: Bạch Thế Tôn! Tam Ma Địa này rất khó gặp!

Phật nói: Vì lìa hai pháp.

Lại thưa: Bạch Thế Tôn! Tam Ma Địa này rất khó hiểu.

Phật nói: Vì vô ngã và ngã sở.

Lại thưa: Bạch Thế Tôn! Tam Ma Địa này rất khó biết.

Phật nói: Vì biết hai pháp thức và trí đều bình đẳng.

Lại thưa: Bạch Thế Tôn! Tam Ma Địa này không trược loạn.

Phật nói: Vì đắc giải thoát vô ngại.

Lại thưa: Bạch Thế Tôn! Tam Ma Địa này rất vi diệu.

Phật nói: Vì lìa các ví dụ.

Lại thưa: Bạch Thế Tôn! Tam Ma Địa này rất tinh thật.

Phật nói: Vì đắc trí Kim Cang dụ.

Lại thưa: Bạch Thế Tôn! Tam Ma Địa này không hư hoại.

Phật nói: Vì trước sau không bị phá vỡ.

Lại thưa: Bạch Thế Tôn! Tam Ma Địa này không đắm chấp.

Phật nói: Vì siêu vượt tất cả tham đắm vướng mắc.

Lại thưa: Bạch Thế Tôn! Tam Ma Địa này đắc quang minh lớn.

Phật nói: Vì lìa các sự tăm tối.

Lại thưa: Bạch Thế Tôn! Tam Ma Địa này rất thanh tịnh.

Phật nói: Vì rốt ráo không nhiễm ô.

Lại thưa: Bạch Thế Tôn! Tam Ma Địa này bản tánh vô cấu.

Phật nói: Vì lìa mọi tham trần.

Lại thưa: Bạch Thế Tôn! Tam Ma Địa này không có chốn hành.

Phật nói: Vì Ba Cõi không hành.

Lại thưa: Bạch Thế Tôn! Tam Ma Địa này không hý luận.

Phật nói: Vì siêu việt hý luận.

Lại thưa: Bạch Thế Tôn! Tam Ma Địa này không động.

Phật nói: Vì rốt ráo vắng lặng.

Lại thưa: Bạch Thế Tôn! Tam Ma Địa này thuận nhập hết thảy xứ.

Phật nói: Vì ngang bằng với hư không.

Bấy giờ, Bồ Tát Hải Ý lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu như thế thì làm sao có thể phát khởi thắng hạnh?

Làm thế nào để đạt được môn Tam Ma Địa tịnh ấn tự thuyết?

Phật nói: Này Hải Ý! Ví như có người muốn đánh nhau với hư không, khi ấy, đối với hư không kia bèn mang giáp mũ. Bồ Tát cũng như thế muốn đắc Tam Ma Địa tịnh ấn tự thuyết thì cần phải trang bị bằng giáp mũ các pháp bình đẳng.

Vì sao?

Này Hải Ý! Vì hễ có cái diệt liền có cái khởi.

Lại nữa, Hải Ý! Chủng tử thức là hữu vi, chủng tử vô biểu là vô vi. Tam Ma Địa này chẳng phải chỗ biết của nhãn thức, chẳng phải chỗ biết của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức. Tam Ma Địa này không thể biểu hiện, nên biết nó vô tri cũng chẳng phải vô tri. Tam Ma Địa này không có tướng biểu hiện, vì đối với tất cả pháp biết rõ bình đẳng, đây gọi là Chánh Đẳng Chánh Giác.

Lại nữa, Hải Ý! Vì ta không thấy có pháp nào là tướng nhiễm nên thành Đẳng Chánh Giác, cũng chẳng thấy có pháp nào là tướng tịnh nên thành Đẳng Chánh Giác. Nếu có tướng la nhiễm thì chính tướng ấy là tịnh, chỗ gọi là tướng thì tự tánh thanh tịnh. Nếu là tướng với tự tánh thanh tịnh tức là vô tướng.

Nếu là vô tướng tức là tướng vô hành. Nếu là tướng vô hành tức không có một pháp nhỏ nào có thể biểu hiện. Do không biểu hiện nên không biết được tất cả pháp. Nếu pháp không có chủ thể biểu hiện và đối tượng biểu hiện thì như vậy là không có văn tự ghi chép. Nếu không có văn tự ghi chép thì gọi là như.

Nhưng tại sao gọi là như?

Đó là đối với sau, trước, giữa cũng thế, tức tất cả pháp ba đời đều không.

Sao gọi là không?

Đó là vô tác, nghĩa là vô tác này cũng vô tác, cũng chẳng phải vô tác. Vì vậy, đây gọi là không.

Nói vô tác, nghĩa là gì?

Vô tác là không có các hành hiện tiền tạo tác, vì không có mảy may pháp nào có thể tạo tác, vì vậy đây gọi là vô tác.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần