Phật Thuyết Kinh Nhuy Tứ Gia - Phẩm Mười - Phẩm Phân Biệt Hộ Ma

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:17 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Thí Hồng Lô Khanh, Ðời Tống 

PHẬT THUYẾT

KINH NHUY TỨ GIA

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Thí Hồng Lô Khanh, Ðời Tống  

PHẨM MƯỜI

PHẨM PHÂN BIỆT HỘ MA  

Tiếp theo nói việc của Tức Tai, Tăng Ích với Giáng Phục. Pháp sai biệt của ba loại Hộ Ma. Y theo làm Mạn Trà La ấy, tuỳ theo việc mà làm Hộ Ma.

Nếu làm Tức Tai Hộ Ma thì ngồi hướng mặt về phương Bắc.

Nếu làm Tăng Ích Hộ Ma thì ngồi hướng mặt về phương Đông.

Nếu làm Giáng Phục Hộ Ma thì ngồi hướng mặt về phương Nam.

Nếu làm Tức Tai Mạn Trà La cùng với Hộ Ma thì làm cái lò hình tròn, nếu Tăng Ích thì làm lò hình vuông, nếu Giáng Phục thì làm lò hình tam giác.

Nếu làm Tức Tai Mạn Trà La với Hộ Ma thì nên dùng màu trắng, Tăng Ích màu vàng, Giáng Phục màu đen.

Nếu làm việc Tức Tai thì ngồi ở toà hoa sen. Làm việc Tăng Ích thì ngồi ở toà cỏ. Làm việc Giáng Phục thì đem bàn chân phải đạp lên bàn chân trái, ngồi xổm đừng ngồi sát đất.

Dùng tâm vắng lặng làm việc Tức Tai, dùng tâm vui vẻ làm việc Tăng Ích, dùng tâm phẫn nộ làm việc Giáng Phục. Hoặc tuỳ theo bản pháp đã nói, y theo đấy mà làm.

Nếu làm việc Tức Tai, dùng cành cao nhất của cái cây để làm Hộ Ma. Nếu làm việc Tăng Ích, dùng cành ở giữa của cái cây để làm Hộ Ma. Nếu làm việc Giáng Phục, nên dùng rễ cây để làm Hộ Ma.

Nếu làm việc Tức Tai, nên mặc áo cỏ tranh. Nếu làm việc Tăng Ích, nên mặc áo đay rơm sô ma. Nếu làm việc Giáng Phục, nên mặc áo màu xanh với áo thấm máu, hoặc áo phá uế, hoặc lại ở trần loả hình.

Nếu làm việc Tức Tai nên dùng bơ, sữa, hoa lúa gạo, Đại Mạch, Mật với cháo sữa, mầm của cỏ tranh kèm với hoa Quân Na, lá cây Chú Đa với Bạch Đàn Hương, gỗ với quả của cây Ô Đàm Mạt La, cây A Du Tha, cây Khổ Luyện, quả của cây Thiêm Di, cây Ba La Xà với các vật khác để làm Hộ Ma.

Nếu làm việc Tăng Ích nên dùng cháo sữa, cơm sữa đặc, mật, sữa với cơm, cháo sữa đặc, mè với ba thức ăn màu trắng, Thiên Mộc, Hồi Hương với Thiên Môn Đông, Long Hoa, quả Vĩ Lô Bà, các loại lúa đậu với củi… từ nhóm vật khác để làm Hộ Ma.

Nếu làm Pháp Giáng Phục nên dùng hạt cải đỏ, máu với dầu hạt cải, thuốc độc, xương, tro, tóc, cây Kinh, loại cây gai, cây Tỳ Đa La, cây Cú Tra, cây Đa La, cây có gai nhọn… để làm hộ ma.

Việc của ba loại Hộ Ma như vậy, giả sử ở bản pháp chẳng nói thì nên y theo pháp này.

Tiếp theo A Xà Lê quán sát đệ tử ấy đáng được nhận pháp khí thì nên quán đỉnh, tức nên như pháp cho quán đỉnh ấy.

Đệ Tử ấy trước tiên nên quán đỉnh, thỉnh A Xà Lê cùng với bố thí. Thoạt tiên chuẩn bị toà ngồi sạch mới, dùng Biện Sự Chân Ngôn trì tụng vào toà ngồi ấy, để ở trong quán đỉnh Mạn Trà La. Lại chuẩn bị lọng trắng mới sạch, ở trên treo vòng hoa. Lại treo vải lụa màu trắng. Dùng mạn Trà La Chủ Chân Ngôn trì tụng vào nhóm hoa ấy, lại ở bên trong Mạn Trà La để các vật dụng Cát Tường.

A Xà Lê và đệ tử ấy như Pháp Hộ Thân, khiến ngồi ở chính giữa Mạn Trà La. A Xà Lê ấy nên đem Ngưu Tô hoà chung với hương, dùng Quân Trà Lợi Chân Ngôn trì tụng vào hương ấy, xông ướp đệ tử… liền đem cái lọng ấy che ngay bên trên.

Lại khiến người khác cầm cây phất lông đuôi trâu với quạt lò hương, trong rương để cái áo kèm chứa đầy Thương Khư với gân, các vật cát tường… khiến cầm cái rương ấy, lại cầm bát sữa đặc nhỏ… vật của nhóm như vậy đều khiến người cầm. Nếu chuẩn bị được thì nên làm âm thanh, lại cầm cầm bốn cái bình khiến đứng ở bên cạnh.

A Xà Lê ấy tụng các Diệu Già Đà cát tường.

Nay đã lược nói thứ tự như vậy. Nếu muốn rộng làm thì nên y theo bản pháp.

A Xà Lê ấy nên đỉnh lễ khắp tất cả các Tôn trong Mạn Trà La, vì quán đỉnh cho nên chí thành Khải Thỉnh. Liền nên phụng trì cái bình đã được trì tụng một trăm biến lúc trước, từ từ nên nhiễu quanh Mạn Trà La. Nhiễu ba vòng xong, lại dùng ba loại Chân Ngôn trì tụng vào cái bình ấy, kết Thủ Ấn để ở trên đỉnh đầu, kèm tụng Căn Bản Chân Ngôn. Trở lại tụng Chân Ngôn này cho đệ tử kia quán đỉnh.

Nếu làm Truyền Pháp quán đỉnh, nên ngồi hướng mặt về phương Tây. Nếu làm Tức Tai quán đỉnh nên ngồi hướng mặt về phương Đông. Nếu làm Giáng Phục quán đỉnh nên ngồi hướng mặt về phương Nam.

Quán Đỉnh xong rồi. Tiếp theo A Xà Lê ấy tự dùng tay cầm cái áo ấy khiến đệ tử mặc vào, cùng với dùng hương xoa bôi xoa trên thân đệ tử ấy, kèm với nhóm hoa cúng dường. Cũng đem vòng hoa ràng quấn hai vai, lại cho vòng xuyến khiến đeo ở cổ tay.

A Xà Lê tự tay cầm cái lọng ấy, khiến đệ tử nhiễu quanh Mạn Trà La. Nhiễu ba vòng xong, cũng đến cửa Tây liền luôn lễ bái. Cái lọng kia tuỳ theo thân đưa qua lại che đầu.

A Xà Lê ấy khải thỉnh các Tôn, nói lời như vậy: Tôi họ tên… cho đệ tử họ tên… quán đỉnh xong rồi. Nay phó chúc các Tôn khiến trì Minh Tạng.

Nói lời này xong, nên buông cái lọng, khiến đệ tử kia đứng dậy đối trước Mạn Trà La, vì đệ tử nói Tam Ma Gia Giới: Nay ngươi đã thành Mạn Trà La A Xà Lê, bậc trì Minh Tạng. Chư Phật, Bồ Tát với Chân Ngôn Chủ, tất cả Thiên Thần đã cùng biết ngươi. Nếu thấy có người đáng được làm Pháp Khí thì nên thương xót kẻ ấy, cho làm Mạn Trà La Giáo khiến trì tụng.

Tiếp theo A Xà Lê ấy nên vì đệ tử, y như pháp lúc trước mà làm Hộ Ma. Nhúm lửa cháy xong, dùng Mạn Trà La Chủ Chân Ngôn Hộ Ma Ngưu Tô một trăm lần, lại dùng Tịch Tĩnh Chân Ngôn. Bơ, mật, váng sữa đặc lạc cùng hoà chung với cơm… Hộ Ma một trăm lần. Lại dùng mè Hộ Ma một trăm lần.

Như vậy làm xong, dùng nước sạch ấy rưới lên đỉnh đầu đệ tử.

Tiếp theo nên rộng bày Mạn Trà La ấy, giải nói các Tôn, chỉ dạy tướng của Bản Thủ Ấn, lại dạy Minh Vương Chân Ngôn. Tiếp theo, dạy nay ngồi ở một chỗ trì tụng Chân Ngôn đã đắc được. Tiếp theo, dạy đem các hương hoa cúng dường Bản Tôn cùng với các Tôn khác.

Tiếp theo, đệ tử ấy ở chỗ Hộ Ma, dùng tâm chí thành lễ bái A Xà Lê, tuỳ theo chỗ cần dùng cần phải bố thí, hoặc tuỳ theo hết thảy vật thày đều dâng cho.

Ấy là: Tự trợ giúp vợ con, vật của nhóm tiền tài. Hoặc tuỳ theo chỗ mà A Xà Lê đã hoan hỷ thì nên cho vật ấy. Hoặc thứ mà mính tự yêu thích cũng nên dâng cho. Nếu người nghèo túng thì dùng sức phụng sự khiến cho Tôn vui vẻ. Song, ở trong các thí dâng cho thì việc phụng sự là hơn hết.

Phàm muốn bố thí. Trước tiên dâng hai bộ quần áo, sau đó buông cho các vật khác. Cầu thành tựu nên dâng cho như vậy.

Nếu cầu Tam Ma Gia Samaya liền nên bố thí quần áo với vàng, con bò mẹ và con nghé, với tuỳ theo cái có của thân đều nên bố thí, cho đến thân của mình. Người cầu Tam Ma Gia nên dâng cho như vậy.

A Xà Lê ấy tiếp theo dạy các nhóm đệ tử, thứ tự khiến ngồi xuống, tự đọc Kinh Bát Nhã khiến nhóm ấy nghe.

Tiếp theo vì nhóm ấy đều nói Tam Ma Gia Giới: Các ngươi từ hôm nay, thường đối với Tam Bảo với các Bồ Tát, các Chân Ngôn Tôn… cung kính cúng dường.

Đối với Kinh Đại Thừa luôn sinh sự hiểu biết thù thắng thắng giải. Phàm thấy tất cả Tam Bảo cũng thấy người thọ nhận Tam Ma Gia Giới, nên sinh yêu thích. Ở chỗ của Tôn Giả luôn sinh cung kính. Đối với các Thiên Thần đừng sinh giận dữ nghi ngờ… cần phải cúng dường. Đối với ngoại giáo ấy chẳng được tin học. Phàm người đến cầu xin thì tuỳ theo cái mình có mà ban cho.

Đối với các hữu tình luôn khởi từ bi. Đối với các công đức, luôn siêng cầu tu tập, thường ưa thích Đại Thừa. Đối với Minh Tạng Hạnh luôn siêng năng tinh tiến trì tụng Chân Ngôn. Đối với hết thảy pháp bí mật của Kinh Minh Tạng… nếu người không có Tam Ma Gia đều chẳng nên vì họ nói Chân Ngôn với Ấn.

Học đủ Minh Tạng, bí mật thọ trì như vậy nói Tam Ma Gia xong, mỗi mỗi đều chỉ bày Bản Ấn cùng với Chân Ngôn đã đắc được ấy, Bộ đã phụ thuộc kèm với nói Bản Mạn Trà La ấy.

Tiếp theo A xà Lê nên tự rưới vảy thân của mình, rồi dâng Át Già của các Tôn, thứ tự cúng dường mỗi một các Tôn. Tiếp theo dùng Mạn Trà La Chủ Chân Ngôn Hộ Ma một trăm lẻ tám biến. Lại dùng Tịch Tĩnh Chân Ngôn Hộ Ma một trăm lẻ tám biến.

Tiếp theo dùng Bộ Tạm Chân Ngôn Hộ Ma Hai mươi mốt biến. Tiếp theo dùng mỗi mỗi Chân Ngôn của các Tôn, dùng Ngưu Tô Hộ Ma bảy biến. Sau đó dùng Chân Ngôn vốn đã trì, tuỳ ý Hộ Ma.

Tiếp theo liền như Pháp tế tự các phương. Tế tự xong, trước tiên rửa tay, rưới vảy cho sạch sái tịnh cho mình với đệ tử. Dùng nhóm hương hoa thứ tự cúng dường tất cả các Tôn cùng với Đỉnh Lễ. Chỗ để cúng dường, dùng tâm chí thành phụng thí, sau đó ứng dụng. Phàm tuỳ theo Pháp Mạn Trà La đã làm, cần thiết nên thành thục hiểu biết thấu tỏ, sau đó mới làm Mạn Trà La.

Pháp giống Kinh để bên cạnh, luôn luôn tra xét bản, sợ có sai lầm thì sao lại chẳng kỹ càng?

Phàm khi làm Mạn Trà La thời nên khiến người trợ thành tựu hộ giúp bên ngoài chỗ ấy. Mỗi khi ra ngoài thời trước tiên người trợ giúp ấy đi vào chỗ đấy, khiến làm thủ hộ đều chẳng để cho trống rỗng. Nếu không có để tử nhận cầm sợi dây, tức trước tiên đóng cây cọc ở một đầu, tự mình nắm chặt mà làm lối đi giới hạn giới đạo. Nếu không có người trợ thành tựu thì tất cả các việc đều nên tự mình làm.

Người trợ thành ấy nếu có bệnh hoạn cùng với không có giới, cũng chẳng thanh tịnh, chẳng biết rõ các việc. Giả sử có hiểu Minh Tạng thì cũng chẳng nên chọn lấy.

Nếu làm Mạn Trà La xong rồi, chợt có ngoại đạo sinh trong nhà Tộc Tính, tâm hạnh mềm mại thiện lành, có sức mạnh, chính trực, tin tưởng ái mộ sâu xa… tự đi đến hớn hở mong cầu được vào Mạn Trà La.

A Xà Lê ấy biết người kia có niềm tin, giả sử làm Mạn Trà La xong rồi thì khiến người ấy vào chính pháp, cho nên lúc đó cùng với người kia làm Pháp Triệu Thỉnh, khiến vào Mạn Trà La. Nhóm đệ tử ấy, hoặc nếu chẳng đủ tướng vốn thiện lành ấy cùng với thiếu pháp thì nên làm Tức Tai Hộ Ma.

Nếu làm Mạn Trà La, trước tiên nên tâu với vị Vua nước ấy, khiến hứa cho đến chỗ của vị Vua ấy, chọn lấy Tránh Sĩ có uy thế đều cầm khí trượng, dùng tâm không sợ sãi, đứng nhiễu quanh Mạn Trà La.

Hoặc nếu có đệ tử như vậy đáng nhận làm pháp khí thọ trì, thì khi triệu thỉnh đệ tử ấy, nếu chẳng có mặt thì nên làm hình người ấy mà làm pháp của nhóm Triệu Thỉnh.

Hoặc có đệ tử dự định muốn quán đỉnh. Nếu người ấy chẳng có mặt thì nên cho đệ tử khác bổ sung vào số quán đỉnh.

Hoặc có đệ tử muốn cầu việc ấy làm Thọ Trì. Nếu chẳng có mặt thì chẳng được vì đệ tử ấy mà bổ sung người khác.

Nếu khi vì đệ tử Thọ Trì, nếu bất chợt chẳng đến thì nên biết A Xà Lê ấy nhìn xem người kia bị bệnh rất nặng cho đến bị chết.

Nếu làm Pháp Triệu Thỉnh xong. Hoặc có nhân duyên như vậy thì ngày thứ hai chuẩn bị làm Mạn Trà La, ngày ấy nên làm Tức Tai Mạn Trà La, đến khoảng chiều tối liền lại Triệu Thỉnh, đến ngày thứ ba làm Mạn Trà La, nếu ngay lúc chính thức làm Mạn Trà La, chợt có khuyết thiếu chút ít vật dụng thì chẳng nên chờ đợi. Hoặc nếu quá giờ, tức các nạn dấy lên.

Nếu khi làm Mạn Trà La, có các nạn dấy lên thì nên dùng Chân Ngôn Tị Trừ ngăn ngừa trừ bỏ, hoặc dùng phương tiện khiến ngưng tai tạn. Nếu chẳng thể trừ bỏ thì hết thảy vật cúng dùng nước rưới vảy cho sạch sái tịnh, một thời cúng dường với dâng Át Già, Phát Khiển các Tôn. Ngày khác nên làm Tức Tai Hộ Ma, sau đó làm cũng được.

Như Mạn Trà La của bảy Minh Phi Vidya rājñī nên làm bảy Viện. Y theo bản pháp ấy mà làm an trí, đừng nghi ngờ pháp ấy, pháp này trái ngược nhau. Pháp Mạn Trà La của Dược Xoa ấy cũng lại như vậy.

Hoặc có Mạn Trà La, bản pháp có thiếu sót thì y theo pháp này mà làm Mạn Trà La.

Hoặc có Mạn Trà La như vậy chỉ riêng pháp khác thì trở lại y theo pháp ấy mà làm Mạn Trà La.

Hoặc có bản pháp tuy nói rằng Mạn Trà La chẳng nói thứ tự thí nói chung y theo thứ tự của pháp này nên làm như ở Trì Minh Tạng rộng nói pháp Mạn Trà La, hoặc y theo bản pháp nói Mạn Trà La, hoặc như A Xà Lê truyền thụ nói Mạn Trà La… nhóm như vậy đã nói thứ tự nên mỗi mỗi y theo pháp ấy mà làm Mạn Trà La, đừng sinh nghi ngờ.

Nếu có bản pháp nói phần lượng của cái bình hoặc lớn hoặc nhỏ thì chỉ y theo pháp này mà làm phần lượng, giả sử trái ngược bản pháp cũng không có lỗi lầm và lo lắng. Hoặc nếu ở chỗ các Tôn khác, muốn tăng thêm cúng dường thì cũng không có chỗ trở ngại. Phàm tuỳ theo tất cả việc pháp đã nói, chẳng phải là che dấu tăng thêm lỗi lầm, nếu thiếu thì chẳng thành.

Hoặc có Mạn Trà La như vậy nói khiến các đệ tử đều cầm lò hương cùng với đèn sáng nhiễu quanh Mạn Trà La. Pháp Thù Dị như vậy, đều chẳng nên trái ngược, chỉ y theo điều ấy làm.

Hoặc có pháp Mạn Trà La như vậy nói Tam Ma Gia đó, thời nói lời như vậy: Các ngươi ngày nay được con thuyền pháp chở ra khỏi sinh tử, hoặc thành tâm rải hoa đều y theo thuyết ấy chẳng được trái ngược với điều ấy. Pháp Thù Dị của nhóm như vậy đều y theo bản pháp mà làm. Nếu chẳng nói, ắt chẳng nên làm.

Phàm vào Mạn Trà La đều có bốn loại quán đỉnh. Một là trừ nạn, hai là thành tựu, ba là tăng ích cho thân của mình, bốn là được địa vị A Xà Lê. Pháp quán đỉnh như vậy, lúc trước đã rộng nói.

Tiếp theo, nay sẽ thành Thọ Minh quán đỉnh. Vào Mạn Trà La tuỳ theo Minh Vidya đã được, muốn thành tựu thì dùng Chân Ngôn ấy trì tụng vào cái bình 300 biến xong, cho quán đỉnh ấy. Trở lại dùng Chân Ngôn ấy, vật đã Hộ Ma trì tụng bảy biến, sau đó một lần Hộ Ma, như vậy cho đến ba lần Hộ Ma. Đây gọi là Thọ Minh quán đỉnh thứ hai.

Nếu có bị vướng nạn, vì trừ nạn cho nên làm quán đỉnh. Đây gọi là Trừ Nạn quán đỉnh.

Vì cầu an vui cùng với phú quý, kèm theo cầu con trai con gái, trừ sự chẳng lành cho nên làm quán đỉnh. Đây gọi là Tăng Ích quán đỉnh.

Phàm vâng chịu quán đỉnh thì Chư Phật, Bồ Tát cùng với các Tôn kèm với nhóm Bồ Tát trì Chân Ngôn Hạnh thảy đều chứng minh, gia bị, hộ niệm. Hết thảy Chân Ngôn của Thánh Quán Tự Tại với Chấp Kim Cương thảy đều thành tựu.

Tất cả Thiên Thần chẳng thể gây tổn hại thảy đều cung kính. Ở trong sinh tử chẳng bị rơi vào nẻo ác, chẳng sinh vào nhà nghèo túng với nơi hiềm ghét xấu ác của người chẳng đầy đủ, luôn nhớ túc mệnh, nhiều tiền tài vật dụng, đủ giới, đoan chính… sẽ sinh vào cõi của Trời, Người luôn gặp đời có Phật. Đối với tâm bồ đề ấy từng chẳng thoái lùi.

Dâng cho các Tôn kèm xin vui vẻ, lại cầm Át Già mỗi mỗi đều dùng Bản Chân Ngôn như pháp phát khiển. Hoặc y theo bản pháp mà làm Phát Khiển. Hết thảy vật dụng Tư Cụ nên phân tán ở con sông lớn, đem thức ăn uống cho người nghèo, chẳng nên cho chó với loài chim bậc dưới của nhóm quạ.

Hết thảy tài vật ở Mạn Trà La thì A Xà Lê ấy đều nên thu lấy, tuỳ ý thọ dụng, đừng cho đệ tử. Nếu nhóm đệ tử dùng vật ấy thì bị đoạ Tam Ma Gia, thế nên A Xà Lê dùng vật ấy. Nếu A Xà Lê chẳng dùng vật ấy thì nên dâng cho Tam Bảo.

Vật của nhóm lọng, cây phất lông đuôi trâu… nên dâng cho Phật. Vật của nhóm toà ngồi, hương hoa bôi, hương đốt… nên dâng cho pháp. Vật của nhóm áo, bình, vật khí… nên dâng cho Tăng Già. Nếu không có Tăng Già thì nên dâng cho Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di. Đệ tử ấy cho đến chút phần cũng chẳng được dùng.

Ngày thứ hai ấy làm đủ pháp đã thiếu kèm theo tức tai, cho nên Hộ Ma một trăm lẻ tám biến.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần