Phật Thuyết Kinh Tăng Chi Bộ - Chương Mười - Mười Pháp - Phẩm Chín - Phẩm Trưởng Lão - Phần Chín - Tỳ Kheo Kokàlika

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:19 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán

PHẬT THUYẾT

KINH TĂNG CHI BỘ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư 

An Thế Cao, Đời Hậu Hán  

CHƯƠNG MƯỜI

MƯỜI PHÁP  

PHẨM CHÍN

PHẨM TRƯỞNG LÃO  

PHẦN CHÍN

TỲ KHEO KOKÀLIKA  

Bấy giờ có Tỳ Kheo Kokàlika đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn ngồi xuống một bên.

Ngồi xuống một bên, Tôn Giả Kokàlika bạch Thế Tôn: Bạch Thế Tôn, Sàriputta và Moggallàna là ác dục, bị ác dục chinh phục.

Này Kokàlika, chớ có nói vậy!

Này Kokàlika, chớ có nói vậy.

Này Kokàlika, tâm hãy tịnh tín đối với Sàriputta và Moggallàna.

Hiền thiện là Sàriputta và Moggallàna.

Lần thứ hai, Tỳ Kheo Kokàlika bạch Thế Tôn: Bạch Thế Tôn, dầu Thế Tôn có lòng tin và tin tưởng, đối với con Sàriputta và Moggallàna là ác dục, bị ác dục chinh phục.

Này Kokàlika, chớ có nói vậy!

Này Kokàlika, chớ có nói vậy.

Này Kokàlika, tâm hãy tịnh tín đối với Sàriputta và Moggallàna. Hiền thiện là Sàriputta và Moggallàna.

Này Kokàlika, chớ có nói vậy!

Này Kokàlika, chớ có nói vậy.

Này Kokàlikaa, tâm hãy tịnh tín đối với Sàripuuta và Moggallàna.

Hiền thiện là Sàriputta và Moggallàna.

Lần thứ ba, Tỳ Kheo Kokàlika bạch Thế Tôn: Hiền thiện là Sàriputta và Moggallàna.

Rồi Tỳ Kheo Kokàlika từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Thế Tôn rồi ra đi.

Tỳ Kheo Kokàlika ra đi không bao lâu, toàn thân của Tỳ Kheo Kokàlika nổi lên những mụt to bằng hạt cải: sau khi lớn bằng hạt cải, chúng lớn lên bằng hột đậu.

Sau khi lớn lên bằng hột đậu, chúng lớn lên bằng hạt đậu lớn. Sau khi lớn bằng hột đậu lớn, chúng lớn lên bằng hòn sỏi. Sau khi lớn bằng hòn sỏi Kolatthi, chúng lớn lên bằng hột táo.

Sau khi lớn lên bằng hột táo, chúng lớn lên bằng trái Amala A Ma Lặc. Sau khi lớn lên bằng trái Amala, chúng lớn lên bằng trái dưa.

Sau khi lớn lên bằng trái dưa vilva, chúng lớn lên bằng trái billa trái dưa đã chín.

Sau khi lớn lên bằng trái billa, chúng bị phá vỡ, mủ và máu chảy ra.

Tại đây, nó nằm trên lá chuối, như con cá ăn phải đồ độc.

Lúc ấy có độc giác Phạm Thiên Tudu đi đến Tỳ Kheo Kokàlika, sau khi đến, đứng trên Hư Không và nói với Tỳ Kheo Kokàlika: Này Kokàlika, hãy đặt tâm tịnh tín nơi Sàriputta và Moggallàna!

Hiền thiện là Sàriputta và Moggallàna.

Ông là ai?

Ta là độc giác Phạm Thiên Tudu.

Thưa Hiền Giả, có phải Hiền Giả là người được Thế Tôn trả lời là đã chứng Bất Lai?

Sao người lại đến đây?

Hãy xem như thế nào người đã lầm lạc trong vấn đề này.

Rồi độc giác Phạm Thiên Tu Du nói lên với Tỳ Kheo Kokàlika bài kệ này:

Con người được sanh ra,

Sanh với búa trong miệng,

Người ngu nói điều xấu,

Là tự chém vào mình.

Ai khen người đáng chê,

Ai chê người đáng khen,

Ðều chất chứa bất hạnh,

Do từ miệng tạo thành,

Và chính do bất hạnh,

Nên không được an lạc.

Nhỏ thay, bất hạnh này,

Chính do cờ bạc sanh,

Khiến tài sản tiêu hao,

Bất hạnh này lớn hơn,

Không những mất tất cả,

Lại mất cả tự mình,

Là người khởi ác ý

Ðối với Chư Thiện Thệ.

Ai chỉ trích bậc Thánh,

Với lời, với ác ý,

Trải qua trăm ngàn thời,

Với nirabuđa,

Còn thêm ba mươi sáu,

Với năm abuđa,

Còn thêm ba mươi sáu,

Với năm abuđa,

Phải sanh vào địa ngục

Chịu khổ đau tại đấy.

Rồi Tỳ Kheo Kokàlika, do chứng bệnh ấy mệnh chung.

Sau khi chết, Tỳ Kheo Kokàlika sanh vào địa ngục sen hồng vì tâm khởi ác ý đối với Sàriputta và Moggallàna.

Rồi Phạm Thiên Sahampati, sau khi đêm gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn.

Sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên, đứng một bên, Phạm Thiên Sahampati bạch Thế Tôn: Bạch Thế Tôn, Tỳ Kheo Kokàlika đã mệnh chung.

Bạch Thế Tôn, Tỳ Kheo Kokàlika đã mệnh chung, phải sanh vào địa ngục sen hồng, vì tâm khởi ác ý đối với Sàriputta và Moggallàna. Phạm Thiên Sahampati nói như vậy.

Nói như vậy xong, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Thế Tôn rồi biến mất tại chỗ.

Rồi Thế Tôn, sau khi đêm đã qua, bảo các Tỳ Kheo:

Này các Tỳ Kheo, đêm nay Phạm Thiên Sahampati khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến ta.

Sau khi đến, đảnh lễ ta rồi đứng một bên, đứng một bên, này các Tỳ Kheo, Phạm Thiên Sahampati thưa với ta: 

Bạch Thế Tôn, Tỳ Kheo Kokàlika đã mệnh chung.

Bạch Thế Tôn, Tỳ Kheo Kokàika đã mệnh chung, phải sanh vào địa ngục sen hồng, vì tâm khởi ác ý đối với Sàriputta và Moggallàna.

Này các Tỳ Kheo, Phạm Thiên Sahampati nói như vậy.

Nói như vậy xong, đảnh lễ ta, thân phía hữu hướng về ta rồi biến mất tại chỗ.

Khi nghe nói vậy, một Tỳ Kheo bạch Thế Tôn:

Bạch Thế Tôn, lâu dài bao nhiêu, là tuổi thọ ở địa ngục sen hồng?

Này Tỳ Kheo, tuổi thọ ở địa ngục sen hồng, rất khó mà tính được.

Có chừng ấy năm, hay có chừng ấy trăm năm, hay có chừng ấy ngàn năm, hay có chừng ấy trăm ngàn năm.

Bạch Thế Tôn, có thể cho một ví dụ được chăng?

Có thể được, này Tỳ Kheo, một cỗ xe chở hai mươi cân Kosala chở đầy hột mè.

Rồi một người cứ sau một trăm năm, một trăm năm, một trăm năm lấy lên một hột mè.

Mau hơn, này Tỳ Kheo, là cỗ xe chở hai mươi cân Kosala chở đầy hột mè, do phương pháp này, đi đến tận sạch, không còn gì nữa, cũng chưa đủ là một Abbuda địa ngục.

Ví như, này Tỳ Kheo, hai mươi Abbuda địa ngục là bằng một Nirabbuda địa ngục.

Ví như, này Tỳ Kheo, hai mươi Nirabbuda địa ngục bằng một Ababà địa ngục.

Ví như, này Tỳ Kheo, hai mươi Ababà địa ngục bằng một Ahaha địa ngục.

Ví như, này Tỳ Kheo, hai mươi Ahaha địa ngục là bằng một Atato địa ngục.

Ví như, này Tỳ Kheo, hai mươi Atato địa ngục bằng một Kumodo địa ngục.

Ví như, này Tỳ Kheo, hai mươi Kumodo địa ngục là bằng một Sogandhika địa ngục.

Ví như, này Tỳ Kheo, hai mươi Sogandhika địa ngục bằng một Uppalako địa ngục.

Ví như, này Tỳ Kheo, hai mươi Uppalako địa ngục bằng một Pundarika địa ngục.

Ví như, này Tỳ Kheo, hai mươi Pundarika địa ngục bằng một Paduma địa ngục.

Này Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Kokàlika phải sanh vào địa ngục Paduma sen hồng, vì khởi lên ác ý đối với Sàriputta và Moggallàna.

Thế Tôn nói như vậy.

Thiện Thệ nói như vậy xong, bậc Đạo Sư lại nói thêm:

Con người được sanh ra

Sanh với búa trong miệng,

Người ngu nói điều xấu,

Là tự chém vào mình.

Ai khen người đáng chê,

Ai chê người đáng khen,

Ðều chất chứa bất hạnh,

Do từ miệng tạo thành,

Và chính do bất hạnh,

Nên không được an lạc

Nhỏ thay bất hạnh này,

Chính do cờ bạc sanh,

Khiến do cờ bạc sanh,

Khiến tài sản tiêu hao,

Bất hạnh này lớn hơn,

Không những mất tất cả,

Lại mất cả tự mình.

Là người khởi ác ý,

Ðối với Chư Thiện Thệ.

Ai chỉ trích bậc Thánh,

Với lời, với ác ý,

Trải qua trăm ngàn thời,

Với nirabbuda,

Còn thêm ba mươi sáu,

Với năm abuđa,

Phải sanh vào địa ngục,

Chịu khổ đau tại đấy.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần