Phật Thuyết Kinh Niệm Tụng được Lược Ra Trong Kim Cương đỉnh Du Già - Phần Một
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Kim Cương Trí, Đời Đường
PHẬT THUYẾT KINH
NIỆM TỤNG ĐƯỢC LƯỢC RA
TRONG KIM CƯƠNG ĐỈNH DU GIÀ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Kim Cương Trí, Đời Đường
PHẦN MỘT
Vì lợi các chúng sinh
Khiến được ba thân nên
Thân khẩu ý tương ứng
Quy mệnh lễ Tam Bảo.
Thân Khẩu Ý Kim Cương Kāya vāk citta vajra.
Đấng Biến Mãn Tam Giới Vairocana: Đại Nhật Phật.
Hay làm Tự Tại Chủ.
Diễn nói Kim Cương Giới Vajra dhātu.
Con cúi đầu lễ hết.
Hùng Mãnh A Súc Bệ Akṣobhya: Bất Động Phật.
Đấng giáng phục các ma.
Bảo ấy Ratna saṃbhava: Bảo Sinh Phật hiện tối thắng.
Với lễ pháp như lý.
Quy mệnh A Di Đà Amitābha: Vô Lượng Quang Phật.
Đấng Thành tựu Bất Không Amogha siddhi: Bất Không Thành Tựu Phật.
Nơi Kim Cương Tát Đỏa Vajra sattva.
Bậc lợi ích chúng sinh.
Quy mệnh Hư Không Tạng Ākāśa garbha.
Bậc hay trao Quán Đỉnh.
Y Hộ Đại Quán Âm Avalokiteśvara: Quán Tự Tại Bậc từ Du Già sinh.
Bí Tỳ Thủ Yết Ma Viśva karma: Kim Cương Xảo Nghiệp.
Chí tâm, con lễ hết. Nay ta ở trong trăm ngàn bài tụng, trong Đại Du Già Giáo Vương của Kim Cương Đỉnh vì người tu Du Già, thành tựu pháp Du Già cho nên lược nói Pháp Tối Thắng Bí Mật thuộc nơi nhiếp chân thật của tất cả Như Lai.
Phàm người muốn tu hành phải có đủ trí tuệ, thấu tỏ nơi Tam Ma Gia Samaya, Chú Pháp chân thật. Ở trong các Đàn Trường Maṇḍala theo Tôn Giả A Xà Lê Ācārya nhận Quán Đỉnh Abhiṣeka xong, thanh khiết thân ấy, không sợ hãi, đủ sự kiên cường rất thâm sâu, khéo điều tâm, ý dũng mãnh chẳng khiếp nhược, cung kính tôn trọng mọi chỗ vui thấy Sở Lạc Kiến, thương xót tất cả, thường hành xả thí buông bỏ ban cho, trụ giới Bồ Tát, vui thích tâm Bồ Đề Bodhi citta.
Người có đủ công đức Guṇa như vậy nên y theo nơi thầy dậy bảo, siêng năng tu cúng dường, Tam Ma Gia Samaya cần phải thủ hộ không để cho lùi mất.
Đối với Kim Cương A Xà Lê Vajrācārya chẳng được sinh khinh mạn, nơi các bạn cùng học chẳng làm bạn ác, nơi các hữu tình khởi đại từ bi, nơi tâm bồ đề vĩnh viễn chẳng chán lìa, ở trong tất cả Đàn Pháp đầy đủ mọi loại công đức trí tuệ, hứa vào Niệm Tụng Jāpa, làm Hộ Ma homa, nhận pháp của nhóm Quán Đỉnh.
Ở Kim Cương Giới Đại Đàn Trường Vajra dhātu mahā maṇḍala này, nói Pháp Dẫn Nhập Kim Cương Đệ Tử Vajra śiṣya praveśādi. Trong đó người mới vào Đàn vì cứu hộ lợi lạc cho hết tất cả giới chúng sinh Sarva sattva dhātu tạo làm việc Sở Thành tối thượng. Nơi Đại Đàn Trường Mahā maṇḍala này, người nên vào chẳng nên lựa chọn là khí Pātra, phi khí Apātra.
Tại sao như thế?
Thế Tôn! Hoặc có chúng sinh gây tạo tội lớn mà nhóm ấy nhìn thấy Kim Cương Giới Đại Đàn Trường này xong với người có vào thời đều được xa lìa tất cả tội chướng.
Thế Tôn! Lại có chúng sinh tham đắm tất cả tiền của, thức ăn uống, sự dục lạc, chán ghét Tam Ma Gia, chẳng siêng năng với sự cúng dường. Mà nhóm người ấy đối với Đàn Trường tùy ý làm việc được bước vào thì tất cả sự mong cầu đều được viên mãn.
Thế Tôn! Hoặc có chúng sinh vui thích Priya: Kỹ nhạc Vādya, ca Gīta, múa Nṛtya, ăn uống Āhāra, tùy ý hành động, vì chẳng biết rõ đại thừa Mahāyāna của tất cả Như Lai, không hỏi Pháp cho nên vào ở trong Miếu Đàn của Thiên Thần ngoại đạo khác.
Vì thành tựu tất cả sự mong cầu cho nên đến ở Đàn Trường Giới Maṇḍala của tất cả Như Lai Bộ Sarva tathāgata kula nhiếp lấy việc chúng sinh, hay sinh việc yêu vui vô thượng thì kinh hoàng sợ hãi chẳng dám vào.
Nhóm người ấy vào trụ nơi đường lối Đàn Trường của nẻo ác Apāya maṇḍala, cũng ráng vào nơi Kim Cương Giới Đại Đàn Trường để được tất cả niềm vui an lành Thiện Lạc thành tựu tối thượng, được ý ưa thích an vui với đẩy lùi tất cả nẻo ác.
Đã vào cửa đạo cho nên đối với Đẳng Địa Giải Thoát của Thiền Dhyāna vimokṣa bhūmi siêng năng tu khổ hạnh, cũng vì nhóm ấy đối với Kim Cương Giới Đại Đàn Trường này vừa mới vào cũng được, chẳng khó được pháp chân thật của tất cả Như Lai Tathāgatatattva huống chi các sự thành tựu khác.
Nếu có các người khác cầu thỉnh A Xà Lê. Hoặc A Xà Lê thấy nơi người khác nhận chịu làm pháp khí Dhrma pātra, lìa nơi lỗi lầm, thắng giải rộng lớn, tâm hạnh đức độ đôn hậu, đầy đủ tín tâm, lợi lạc cho kẻ khác.
Thấy loại như vậy xong, tuy chẳng cầu thỉnh mà nên tự kêu gọi, bảo rằng: Này thiện nam tử Kula putra! Ta sẽ vì ngươi nói nghi thức hành bí mật của đại thừa. Ở trong đại thừa giáo, ngươi là Thiện Khí.
Nếu có Đấng Ứng Chính Đẳng Giác đời quá khứ cùng với Bậc Y Hộ của đời vị lai hiện tại … đã trụ ở thế gian làm điều lợi ích bởi các vị ấy đều hiểu rõ bí pháp Guhya dharma này cho nên ở dưới cây Bồ Đề Bodhi vṛkṣa đắc được Tối Thắng Vô Tướng Nhất Thiết Trí Dũng Mãnh Thích Sư Tử.
Do được Du Già bí mật Guhya yoga cho nên phá nát Đại Ma Quân Mahā māra sena dharṣaṇa, loài gây sự sợ hãi quấy nhiễu nhân gian.
Chính vì thế cho nên thiện nam tử! Vì được Nhất Thiết Trí Sarva jñā cho nên đối với điều ấy nên tác chính niệm samyaksmṛti. Việc trì tụng Jāpa có nhiều loại vui, lợi như vậy.
Khi biết người kia đã khởi tâm sinh niệm thương xót thì mới có thể nhận làm đệ tử Śiṣya. Cần phải vì kẻ ấy khéo mở bày khắp cả.
Lúc thường niệm tụng thời nơi làm Pháp Sự là các núi có đủ hoa quả. Bên bờ sông, ao, hồ trong sạch thích ý, tất cả nơi mà Chư Phật đã khen ngợi. Hoặc ở ngay trong Chùa, hoặc chốn A Lan Nhã Araṇya. Hoặc ở khoảng giữa suối, núi.
Hoặc nơi xa xôi vắng lặng, nơi có thể tắm rửa sạch sẽ. Lìa các chốn khó khăn, lìa các nơi có âm thanh ồn áo. Hoặc ở nơi mà hợp ý ưa thích. Ở nơi thích hợp ấy, mới nên niệm tụng.
Phàm người tu Du Già, bắt đầu từ chỗ nằm đứng dậy, liền kết Phát Ngộ Nhất Thiết Phật Đại Khế, tụng Mật Ngữ này:
Án, bạt chiết la, để sắt xá.
OṂ VAJRA TIṢṬA.
Khế ấy là: Đem hai tay Chỉ Quán đều tác Kim Cương Quyền, hai Độ Đàn Tuệ hai ngón út cùng móc nhau, ngửa hai Độ Tiến Lực hai ngón trỏ cùng trụ nhau, duỗi thẳng như cây kim Sūci. Đem Khế để ngay trên trái tim, tụng Mật Ngữ lúc trước ba biến. Liền niệm Chư Phật từ tam muội giác ngộ. Cần phải quán sát tất cả các pháp giống như ảnh tượng.
Liền suy nghĩ nghĩa của bài kệ này:
Các Pháp như ảnh tượng
Trong sạch không uế trược
Không lấy, không thể nói
Nơi sinh của nhân nghiệp
Như vậy hiểu các pháp
Lìa tự tính, không dựa vô y:
Không có nơi nương theo
Lợi vô lượng chúng sinh
Là Như Lai ý sinh.
Khi từ chỗ ngồi đứng dậy muốn đi, liền tụng Mật Ngữ này:
Bạt chiết la, tỳ già.
VAJRA VEGA.
Nếu nơi dừng trụ, liền tụng Mật Ngữ này:
Để sắt tra, bạt chiết la.
TIṢṬA VAJRA.
Nếu muốn cùng người nói chuyện, liền tưởng trên lưỡi có chữ Lam RAṂ.
Liền tụng Mật Ngữ này.
Lam, võng la, bạt chiết la, bà sa.
RAṂ VĀRA VAJRA BHĀṢĀ.
Nếu lúc rửa mặt thời tụng Mật Ngữ này:
Án, bạt chiết la, la già, la già gia, xí lam nhưỡng, ta bà hàm. Bạt chiết la, đô sử dã, hộ.
OṂ VAJRA RĀGA RĀJĀYA ŚĪGHRAṂ SVĀMAṂ VAJRA TUṢYA HOḤ.
Mỗi một lần tụng Mật Ngữ này, liền dùng nước rửa mặt. Như vậy cho đến bảy lần tụng, bảy lần rửa, liền được tất cả Như Lai nhìn ngó.
Nếu các nhóm ma có loài bạo ác… đối với người này đều sinh vui vẻ, cũng có thể dùng Mật Ngữ gia trì vào nước bảy biến rồi dùng.
Nếu lúc muốn nhai nhấm cành Dương thời trước tiên nên tụng Nhất Thiết Như Lai Vi Tiếu Mật Ngữ Sarva tathāgata smita guhya vāca bảy biến xong rồi nhai nhấm. Điều này hay phá tất cả phiền não Kleśa với tùy phiền não Upakleśa.
Mật Ngữ là:
Án, bạt chiết la hạ sa, ha.
OṂ VAJRA HĀSA HA.
Kết Khế Pháp dùng Quán Vũ tay phải nắm Kim Cương Quyền Vajra muṣṭi rồi nhai nhấm.
Nếu muốn đi đại tiểu tiện, liền tác Giáp Trụ Khế Kavaca mudrā trang nghiêm thân của mình.
Tức tụng Mật Ngữ này:
Án, châm.
OṂ ṬUṂ.
Dùng Mật Ngữ này ủng hộ thân của mình Khế Pháp ấy. Dùng hai tay chỉ quán đều kết Kim Cương Quyền, duỗi độ Tiến Lực hai ngón trỏ ở đầu lực độ ngón trỏ trái tưởng chữ Án OṂ, ở đầu Tiến Độ ngón trỏ phải tưởng chữ Châm ṬUṂ. Kết ở trên trái tim, dùng độ Tiến Lực hai ngón trỏ quấn quanh nhau ba lần như dạng mặc áo giáp. Lại dời đến lưng, lại đến rốn, eo…
Quấn quanh đầu gối, cổ họng, đỉnh đầu… đẩy lên trước trán, sau gáy đều quấn quanh ba lần như dạng mặc áo giáp. Tức liền rũ xuống dưới, từ độ Đàn Tuệ hai ngón út theo thứ tự giải tán giống như áo khoác ngoài, đến trái tim liền dừng.
Nếu muốn tẩy rửa sạch thời liền dùng Chỉ Vũ tay trái nắm Kim Cương Quyền, duỗi dựng Lực Độ ngón trỏ. Kết Khế này xong, tụng chữ Hồng HŪṂ. Trước tiên nhận lấy đất để dùng.
Phàm người trì tụng cầu viện Thắng Thiện, phần lớn bị ma ác gây chướng ngại, thường rình tìm lúc thuận tiện để hại. Hoặc tại nơi đại tiểu tiện, hoặc các nơi uế ác đều gây hại ấy. Nên dùng Mật Ngữ, kết Khế… gia hộ, đừng để cho loài Ma được dịp thuận tiện.
Lúc muốn vào nhà xí thời liền tưởng thân của mình làm chữ Lam RAṂ, hai bên trái phải tưởng chữ Hồng HŪṂ. Lại tưởng thân của mình tỏa lửa Kim Cương, răng có lửa rực sáng.
Liền tụng Mật Ngữ:
Án, bạt chiết la na la, Ma Ha nỗ đa thấp phộc la gia, tát bà hàm, bà tất nhĩ, cú lô. Tát bà nỗ sắt chiêm, hồng phát.
OṂ VAJRA DHĀRA MAHĀ DŪTA SVARĀYA SVĀMAṂ VĀŚIN KURU SARVA DUṢṬAṂ HŪṂ PHAṬ.
Khế Pháp ấy. Dùng Chỉ Vũ tay trái kết Sân Kim Cương Quyền. Ở đấy nên làm mặt giận Nộ Nhãn, nhướng mày, mặt giận, nhìn ngắm ác… để Ấn ở trên đỉnh đầu với hai vai, trái tim, cổ họng tức tất cả ác trong ba cõi đều được tiêu trừ.
Lại tụng Mật Ngữ này là:
Án, cú lô, niết lý sắt trí, hề hồng phát.
OṂ KURU DṚṢṬI HE HŪṂ PHAṬ.
Mật Ngữ với Khế này ở tất cả nơi chốn, hộ thân hay xa lìa các ác.
Tiếp việc ở nhà xí đã xong, ra ngoài rửa sạch rồi nên kết Khế, tụng Mật Ngữ.
Dùng nước Kim Cương khéo xúc miệng.
Mật Ngữ là:
Án, bạt chiết la, na già tra.
OṂ VAJRA UDAKA ṬHAḤ.
Khế Mudra ấy. Dùng Quán Vũ tay phải kết Kim Cương Quyền, duỗi ba độ: Nguyện ngón giữa, phương tiện ngón vô danh, tuệ ngón út. Tức nên xúc miệng. Xúc miệng xong liền nên tắm rửa.
Phàm pháp tắm rửa có bốn loại. Mỗi ngày tùy ý như pháp tu hành. Một là trụ ba Luật Nghi, hai là Phát Lộ Khuyến Thỉnh, ba là Dùng Khế cúng dường, bốn là dùng nước tắm rửa. Bốn loại pháp này, bậc trí nên hành.
Nếu vào trong nước, nên tưởng là cái ao Hoan Hỷ của Cõi Trời. Ở trong ao ấy tưởng. Liền dùng chữ Tông VAṂ tưởng Như Lai Bộ Tathāgata kulāya, dùng chữ Hồng HŪṂ tưởng Kim Cương Bộ Vajra kulāya, dùng chữ Đát la TRĀḤ tưởng Bảo Bộ Ratna kulāya, dùng chữ Hiệt lợi HRĪḤ tưởng Liên Hoa Bộ Padma kulāya, dùng chữ A AḤ tưởng Yết Ma Bộ Karma kulāya. Như vậy làm xong, lại tưởng Mật Ngữ Thiên mà mình đã niệm tụng đều trụ ở Bản Bộ.
Tiếp nên tưởng Như Lai Tối Thượng Luân Đàn Tathāgatottama maṇḍala ở ngay trong nước kèm niệm tưởng năm Bộ ở trên Luân Đàn. Dùng nhóm Mật Ngữ, Khế gia tịnh nước ấy.
Việc tắm rửa xong, liền dùng hai tay bụm nước thơm trong sạch. Tụng Mật Ngữ đã trì mà gia trì dùng cúng dường tất cả Chư Phật, các Đại Bồ Tát với hàng Bản Thiên.
Đã cúng dường xong, liền tưởng Luân ấy nhập vào hết thân của mình. Tưởng xong, như pháp rời khỏi nước, đứng bên bờ, dùng nhóm Khế của Đầu Mão…trang nghiêm thân ấy.
Dùng Quán Vũ tay phải toả lửa sáng của bàn tay Kim Cương, cầm Bạt Chiết La Vajra: Chày Kim Cương.
Dùng Chỉ Vũ tay trái cầm cái Khánh Quang Minh của Kim Cương, mặc áo lễ bằng the lụa tơ lụa mịn mà. Miệng ngậm Bạch Đậu Khấu, nhấm Long Não Hương khiến cho miệng toả hơi thơm. Dùng tâm chuyên chú, ở khoảng trung gian khởi đại từ bi, chẳng giận dữ, chẳng ái nhiễm, chẳng nhìn ngó uế ác ấy với tất cả hàng Chiên Đà La.
Liền tưởng bước đi trong hoa sen tám cánh với hiện ra vật cúng ba đời nơi Minh Vidyā mình đã tự trì, tưởng cúng dường rộng lớn tối thượng. Lại suy tư lý sâu xa, chân tính của Mật Ngữ mà mình đã trì. Nên đi đến Đạo Trường.
Lúc muốn vào thời trước tiên dùng pháp như trên, tụng Mật Ngữ gia trì nước rửa chân, xúc miệng xong rồi, từ nơi đã kết lúc mới phát, Chỉ Vũ tay trái nắm Kim Cương Quyền chẳng buông, để ở trên trái tim.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Thập địa - Phẩm Một - Phẩm địa Cực Hỷ - Tập Một
Phật Thuyết Kinh đại Phương đẳng Vô Tưởng - Chương Mười Bảy - Vô Tận
Phật Thuyết Kinh Cựu Tạp Thí Dụ - Phần Năm Mươi Ba
Phật Thuyết Kinh Na Tiên đàm đạo - Phần Chín - Khoảnh Khắc Tái Sanh
Phật Thuyết Kinh Trường A Hàm - Kinh Tam Tụ
Phật Thuyết Kinh Bát Nhã Ba La Mật - Phẩm Hai Mươi Năm - Phẩm Thập Vô