Phật Thuyết Kinh Phật Bản Hạnh Tập - Phẩm Bốn Mươi Mốt - Phẩm Na La đà Xuất Gia - Phần Hai

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Xà Na Quật Đa, Đời Tùy

PHẬT THUYẾT

KINH PHẬT BẢN HẠNH TẬP

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Xà Na Quật Đa, Đời Tùy  

PHẨM BỐN MƯƠI MỐT

PHẨM NA LA ĐÀ XUẤT GIA  

PHẦN HAI  

Khi ấy Y La Bát ẩn hình Rồng lại hóa thành thân Đồng Tử đứng trước Thế Tôn đảnh lễ dưới chân Phật, rồi lui đứng về một bên, liền đọc hai bài kệ hỏi Phật:

Vua nào được tự tại?

Say đắm gọi là nhiễm?

Sao gọi là thanh tịnh?

Sao gọi là ngu si?

Người ngu cớ gì mê?

Sao gọi là người trí?

Hợp gì phải biệt ly

Gọi là nhân duyên hết?

Lúc ấy, Đức Thế Tôn lại dùng kệ đáp:

Do thứ sáu tự tại

Vua nhiễm gọi là nhiễm

Không nhiễm mà có nhiễm

Do vậy gọi là si.

Bị chìm trong nước lớn

Nên gọi hết phương tiện

Thông suốt hết phương tiện

Nên gọi là người trí.

Long Vương Y La Bát lại dùng kệ bạch Phật:

Giữ gìn giới gì, tu hạnh gì

Lại do nhân duyên tạo nghiệp gì

Thọ thân tối thắng hơn Trời người

Tu tập tối thượng lợi vô biên?

Đức Thế Tôn nói kệ đáp lại Long Vương:

Phụng dưỡng người già chớ mắng người

Muốn gặp Tôn trưởng phải đúng lúc

Thường hành ái ngữ tu thiện pháp

Thường nghe chân thật nói điều lợi,

Thích pháp nhớ kỹ đến bồ đề

Trí tuệ phân biệt tư duy nghĩa

Thật ngữ tinh cần tu phạm hạnh

Thường hành bố thí với mọi người,

Chất trực cần cù soi xét kỹ

Nói năng khóc cười đều lánh ác

Ngạo mạn dèm pha đều lánh xa

Chớ kết oán thù cùng người khác

Chánh niệm nói ra lời hoàn hảo

Hoặc nghe, hoặc biết tâm ý định.

Như người thường sống theo phóng dật

Không chánh tư duy, chẳng nghe pháp

Nếu hay tu hành nhân chánh đạo

Khẩu nghiệp thanh tịnh cũng từ đây

Nhẫn nhục chánh niệm, chánh tư duy

Nhờ vào học rộng trí đa văn.

Nghe Đức Thế Tôn nói bài kệ này rồi, Đồng Tử Na La Đà tâm lìa ái dục. Long Vương Y La Bát gặp Đức Phật, nghe pháp chiêm ngưỡng tôn nhan vui buồn lẫn lộn.

Bấy giờ Đức Thế Tôn hỏi Đại Long Vương Y La Bát: Cớ gì ông vừa gặp ta, tươi cười rồi bỗng nhiên buồn khóc ròng thế?

Long Vương Y La Bát bạch Phật: Thưa Đức Như Lai Thế Tôn, con nhớ đời quá khứ có Đức Phật ra đời hiệu là Ca Diếp Như Lai Vô Thượng, Chánh Đẳng Giác.

Khi ấy con ở trong giáo pháp của Ngài làm người xuất gia tu phạm hạnh, Thưa Thế Tôn, thuở ấy con thấy một cây cỏ tên là Y La, dùng tay bẻ cây cỏ này, rồi cầm đi đến chỗ Phật Ca Diếp, bạch Phật: Thưa Thế Tôn, nếu có Tỳ Kheo bẻ cỏ Y La có mắc quả báo gì không?

Đức Thế Tôn đáp: Này Tỳ Kheo, ông phải biết, nếu Tỳ Kheo cố ý bẻ cỏ này, thì người ấy sẽ đọa vào địa ngục kiên cố. Thưa Thế Tôn, lúc ấy con được Đức Phật Ca Diếp Như Lai Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác dạy lời như vậy, nhưng trong tâm không tin, nên không cho là việc hy hữu quá ư đặc biệt.

Do vì không nghe Phật Ca Diếp dạy, không nhận sự chỉ giáo của Như Lai, lại suy nghĩ rằng ta chỉ bẻ gãy cây cỏ Y La, làm gì có quả báo như vậy.

Thưa Thế Tôn, khi ấy con đã phạm tội đọa mà không tin quả báo tội đọa, lại không xả bỏ tà kiến này, nên sau khi qua đời con liền sinh trong loài Rồng trường thọ. Vì lý do ấy mà con có tên là Y La Bát.

Bấy giờ, con trở lại chỗ Đức Phật Ca Diếp bạch: Thưa Đại Thánh Thế Tôn, không biết chừng nào con thoát khỏi thân Rồng xấu xí này?

Khi nào con trở lại thân người?

Thưa như vậy rồi con đứng im lặng.

Lúc ấy, Đức Phật Ca Diếp Như Lai Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác liền bảo con: Này Đại Long Vương, ông phải biết, qua chừng ấy năm, chừng ấy trăm năm, chừng ấy ngàn năm, chừng ấy trăm ngàn vạn ức năm về sau, sẽ có Đức Phật ra đời hiệu là Thích Ca Như Lai Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Đức Phật Thích Ca sẽ thọ ký cho ông được làm thân người.

Thưa Thế Tôn, vừa rồi con nghĩ rằng trong quá khứ, vì không tin, chống lại giới pháp của Đức Phật Ca Diếp, nên sinh làm thân Rồng, nay nhờ chút ít thiện duyên nên được gặp Ngài mà không thể trì giới. 

Thưa Thế Tôn, con tự thấy tội lỗi như vậy, quở trách tự thân, nên buồn khóc ràn rụa cả mặt mày. Còn con thấy Thế Tôn nên hoan hỷ, đó là lý do khiến con tươi cười.

Thưa Thế Tôn, con nghĩ: Hy hữu thay! Hy hữu thay! Chưa từng có pháp nào như vậy, chỉ có Đức Phật Thế Tôn mới có pháp như vậy. Nghĩa là không có hai lời.

Như Đức Phật Ca Diếp thọ ký cho con: Này Đại Long Vương, trải qua chừng ấy năm chừng ấy ức năm, ở tương lai có Đức Phật ra đời. Nay y như lời Ngài đã thọ ký không sai khác.

Thưa Thế Tôn do nhân duyên đó, nay con xin hỏi Thế Tôn: Chừng nào con thoát khỏi thân Rồng?

Chừng nào con được trở lại thân người?

Đức Thế Tôn bảo Đại Long Vương Y La Bát: Này Đại Long Vương, từ nay trở đi trải qua chừng ấy năm, chừng ấy ức năm như đã nói trước vào đời vị lai có Đức Phật ra đời hiệu là Di Lặc Như Lai Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. 

Lúc ấy Đại Vương sẽ được thân người, được Đức Phật Di Lặc độ cho xuất gia, tu phạm hạnh, diệt sạch các khổ. Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại vì Y La Bát thuyết diệu pháp, khiến Long Vương được hoan hỷ.

Ngài khuyến khích dạy: Long Vương hãy đến đây, quy y Phật, Pháp, Tăng và thọ trì năm cấm giới, thì Đại Long Vương sẽ được lợi ích an lạc vô cùng lâu dài.

Long Vương Y La Bát nghe Đức Phật dạy những lời như vậy, liền bạch Phật: Vâng lời Thế Tôn dạy, con xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng và thọ trì Năm Giới.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại bảo Y La Bát: Này Đại Vương, đã đến lúc.

Y La Bát thưa với Đồng Tử Na La Đà: Mời Đồng Tử lại đây, Đồng Tử cần bao nhiêu vàng bạc châu báu, tùy ý nhân giả, tôi sẽ dâng đủ cho nhân giả, còn Long Nữ này nhân giả không nên dùng.

Vì sao?

Vì hơi thở của Long Nữ có thể làm cho thân người thế gian biến thành tro bụi.

Na La Đà trả lời Long Vương: Này Đại Long Vương, ta không cần vàng bạc ngọc báu, cũng không cần Ngọc Nữ của Long Vương.

Lý do tại sao?

Vì ta được ở bên Đức Phật nghe kệ, nên đối với ái dục đã nhàm chán xa lìa. Long Vương Y La Bát đảnh lễ dưới chân Phật nhiễu quanh ba vòng rồi tạ từ ra về.

Đức Phật tuần tự dạy bảo cho tám vạn bốn ngàn chúng mà Na La Đà là bậc thượng thủ những giáo pháp như bố thí, trì giới, sinh lên Trời lại chỉ bày nhiều sự đau khổ do lòng tham dục, khiến họ nhàm chán xa lìa để chứng lậu tận.

Ngài lại tán thán công đức xuất gia là yếu tố trợ giúp trên đường giải thoát. Đức Phật biết các đại chúng mà Na La Đà là vị Thượng Thủ, đều vui mừng hớn hở, thân tâm thư thái không còn chướng ngại.

Bấy giờ Đức Phật dạy pháp trọng yếu chân chánh để đại chúng sinh hoan hỷ đó là pháp bốn chân lý: Khổ, tập, diệt và đạo.

Đức Thế Tôn dùng tất cả phương tiện để thuyết, giải thích, chứng minh, xiển dương phân tích, kiến lập phương pháp thực hành tu tập.

Như thế này là khổ, như thế này là nguyên nhân của khổ, là diệt khổ và như thế này là pháp chứng đạo. Đức Thế Tôn đem bốn chân lý chân thật này, bằng các nhân duyên, diễn thuyết chứng minh dạy phương pháp tu hành.

Khi ấy đại chúng liền ngay tại chỗ xa lìa trần cấu, dứt sạch phiền não, đối với các pháp được con mắt trí tuệ thanh tịnh, bao nhiêu nguyên nhân đau khổ đều trừ diệt, hiểu biết các pháp một cách như thật, ví như áo sạch không có chút dơ bẩn, không chỉ đen, khi muốn nhuộm màu gì thì thành màu đó.

Đúng vậy!  Đúng vậy! Na La Đà và đại chúng này ngay tại chỗ ngồi xa lìa phiền não, các nguyên nhân khổ đều diệt, biết thật tướng các pháp, kiến lập vô úy, vượt khỏi lưới nghi, chẳng phải nghe từ người khác nói, biết được là do Thế Tôn dạy, tất cả đều quy y Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng và thọ lãnh năm cấm giới. Bấy giờ, tám vạn bốn ngàn đại chúng này liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ sát chân Phật đi nhiễu quanh ba vòng rồi từ tạ ra về.

Lúc đó Đồng Tử Tiên Nhân Na La Đà đã thấy các pháp, đã được các pháp, đã chứng thật tướng các pháp rồi, vượt qua các nghi, thoát khỏi mê hoặc, lại không mắc vào lưới nghi, đã được vô úy, chẳng phải nghe từ người khác, đã biết giáo pháp sâu kín của Thế Tôn, liền đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật và bạch: Cúi xin Đức Thế Tôn cho con được xuất gia thọ Cụ Túc giới!

Bấy giờ Đức Phật bảo Đồng Tử: Lành thay! Đến đây Tỳ Kheo, vào trong giáo pháp của ta tu phạm hạnh, sẽ chấm dứt khổ đau, đến được bờ Niết Bàn. Liền khi ấy, Đồng Tử thành người xuất gia thọ giới Cụ Túc.

Khi Trưởng Lão Tỳ Kheo Na La Đà đã xuất gia rồi, thành tựu giới Cụ Túc chưa được bao lâu, đi đứng thiền tọa một mình, xa lánh nơi đông đảo ồn ào, giữ gìn thân khẩu chưa từng phóng túng, tinh tấn dũng mãnh chưa bao giờ trễ nãi.

Thiện Nam này được xuất gia tu phạm hạnh vô thượng, chưa được bao lâu đã tiến đến bờ giải thoát, hiện thấy thật tướng các pháp, tự chứng các pháp thần thông, chứng rồi tự biết, tự thấy, tự giác ngộ rồi nói lên thế này: Sinh tử đã dứt, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không thọ thân đời sau. Biết rõ như vậy, Trưởng Lão này liền thành A La Hán đắc tâm hoàn toàn giải thoát, tuệ hoàn toàn giải thoát.

Tỳ Kheo Na La Đà này đắc quả Vô Trước A La Hán, ở riêng chỗ vắng lặng suy nghĩ: Ta có thể đến bên Đức Phật, dùng bài kệ hỏi Ngài. Buổi sáng nọ, Trưởng Lão Tỳ Kheo Na La Đà từ phòng ra đi hướng đến chỗ Đức Phật. Đến nơi, vị ấy đảnh lễ dưới chân Phật, rồi lui ra một bên.

Bấy giờ Na La Đà liền dùng kệ hỏi Đức Phật về các nghĩa:

Con nay mới biết A Tư Đà

Nói lời chân thật không sai khác

Nay lại được nghe Thế Tôn dạy

Bơi trong biển pháp đến Niết Bàn

Rời khỏi thế tục được xuất gia

Trì bát khất thực nuôi mạng sống

Tu hành pháp ấy được quả gì?

Nay con xin hỏi Phật Thế Tôn.

Đức Thế Tôn nói kệ đáp Trưởng Lão Na La Đà:

Ông hỏi quả báo tu phạm hạnh

Việc này vô thường khó biết được

Ta nay vì ông giải thích rõ

Cần phải tinh tấn thật vững bền.

Hễ người tu sĩ vào làng xóm

Được khen, bị chê xem như nhau,

Đề phòng những nơi làm loạn ý

Sẽ chứng tịch tịnh vô thượng quả.

Hành giả phải quán lời đường mật

Giống như lửa mạnh phừng phực cháy

Thấy người phụ nữ thân kiều diễm

Cần phải xa lìa chớ nhiễm tâm.

Do vì ái dục không tham đắm

Do mình và người không ái nhiễm

Không nhiễm tức không sinh tranh đấu.

Bao nhiêu chủng loại ở thế gian

Thân mình, thân người không có khác

Mạng sống ai ai cũng giống nhau

Chín chắn tư duy quán như vậy.

Khi sân chớ có giết, hại nhau

Tham, mạn các thứ nên tiêu diệt

Tất cả phàm phu chấp đắm thân

Người có mắt tuệ nên lìa oán

Như uống độc dược, đều bị chết.

Nếu vào xóm làng xin vật thực

Chẳng xem việc đời, tâm tán loạn

Tránh xa những nơi gây tham đắm

Do vì không đắm nên giải thoát.

Đêm vắng Tọa Thiền không mơ tưởng

Lánh xa làng xóm cũng chớ màng.

Sáng ra đến giờ đi khất thực

Chánh niệm tư duy bước vào làng

Trầm tĩnh mặc nhiên đi trong xóm

Khất thực thứ lớp trải từng nhà,

Du hành trong xóm đừng giỡn cợt

Không nên thô lỗ nói với người

Tay nâng bình bát đi khất thực

Dù có hùng biện chỉ làm thinh.

Khất thực dù ít chẳng nên buồn

Chẳng nên mạ lỵ người cho ít

Được họ dâng cúng thật là tốt

Với kẻ không cho, chớ nên buồn.

Đối hai người ấy tâm bình đẳng

Về lại gốc cây, dùng tùy ý

Ăn xong trở lại vào trong núi

Kiết già Tọa Thiền dưới gốc cây,

Giống như Tiên Nhân ngồi nệm cỏ

Thân khẩu và tâm đều thu nhiếp

Khủng bố chẳng sợ, giữ tâm ý

Thế sự chẳng màng, vui rừng núi.

Dưới cây an tọa khéo tư duy

Lưỡi ép chân răng, thở nhè nhẹ

Ngoài ra, điều phục hết các căn

Tâm ý chẳng được duyên các pháp.

Tâm ý không vướng vào cảnh giới

Các pháp uế trược phải xa lìa

Chân tâm thanh tịnh tu phạm hạnh

Lời hay lẽ phải cần siêng học.

Thông minh đa trí phải phụng thờ

Người lìa ái dục ưa tịch tĩnh

Những người như vậy nên gần gũi

Đến về bên họ, tâm tín thuận

Tin rồi cung kính như Thế Tôn.

Chẳng nói việc tốt xấu nhà người

Không được chê người, khen ngợi mình

Không được cao giọng nói lớn lời

Như lửa phừng cháy, xa cũng nghe.

Tư duy như vậy dứt ái triền

Tỳ Kheo xuất gia là như thế.

Việc làm, không làm, thân chẳng vướng

Bình đẳng như vậy mọi việc an

Hạnh tu Thánh Nhân phải như vậy.

Phải biết nghiệp báo như xe lăn

Giảng nói Thánh pháp cho một người

Người ấy tư duy thì chứng biết

Ngồi nơi vắng, điều phục các căn

Điều phục căn rồi tâm thanh tịnh

Về sau tiếng tốt truyền mọi nơi.

Hạnh này chỉ có trong rừng vắng

Hoặc ngồi trong núi dưới gốc cây

Hoặc tại bờ sông, bên ao suối

Nên ngồi tư duy chỗ như vậy.

Trí tuệ yếu kém thường ngủ nghỉ

Định lực dồi dào sinh giác ngộ

Như suối, như ao, như biển cả

Người tu thiền định cũng như vậy.

Người ngu như nửa bình nước cơm

Kẻ trí nào khác ao nước đầy

Người trí dầu có nói năng nhiều,

Tuy vậy mọi lời đều đúng lúc

Có người hùng biện lý luận nhiều

Hoặc người ít nói mà hiểu đúng

Ít nói như vậy cũng là trí

Như vậy gọi là Tiên Thánh Nhân

Cũng là chân thật tu trung đạo

Đó là tịch tĩnh được giải thoát.

Đức Thế Tôn nói bài kệ này rồi, Trưởng Lão Na La Đà tâm ý được khai ngộ.

Lại có vị sư nói: Họ của Trưởng Lão Na La Đà thuộc dòng Ca Chiên Diên, nên còn gọi là Trưởng Lão Ca Chiên Diên.

Đức Phật đã từng thọ ký: Này các Tỳ Kheo, các thầy phải biết, trong chúng Thanh Văn này của ta, người hiểu ý nghĩa Phật Pháp một cách nhanh chóng bậc nhất, hoặc nghe ta nói nhiều mà thông minh lãnh hội hết, hoặc khi ta nói cô đọng cũng lãnh hội rõ ràng, rồi vì người khác diễn giải. Đó là Tỳ Kheo Đại Ca Chiên Diên này.

Bấy giờ chúng Tỳ Kheo nghe Đức Phật nói vậy, cho là việc hy hữu, nói với nhau: Tôn Giả Tỳ Kheo Đại Ca Chiên Diên trong hội này thật là ít có, đại chúng nghi ngờ lại không có người giải thích mối nghi ngờ cho chúng ta. Người rõ ý nghĩa mọi pháp chỉ có Thế Tôn mà thôi.

Họ liền đi đến chỗ Đức Phật, đồng bạch: Lành thay! Bạch Thế Tôn, Trưởng Lão Đại Ca Chiên Diên này đời trước trồng những căn lành gì, mà ngày nay đến với Phật liền được xuất gia thọ giới Cụ Túc, chứng quả A La Hán?

Rồi Đức Thế Tôn lại thọ ký ở trong chúng Thanh Văn này là người có trí tuệ lanh lợi đệ nhất, Phật nói tóm lược mà người lại hiểu chi tiết, Phật nói rộng dài mà người lại hiểu được tóm lược, đó là Đại Ca Chiên Diên này vậy?

Chúng con nguyện muốn được nghe.

Đức Thế Tôn bảo đại chúng Tỳ Kheo: Này các thầy Tỳ Kheo, phải chí tâm lắng nghe, ta nhớ thời quá khứ trong hiền kiếp, khi chúng sinh sống hai vạn tuổi, bấy giờ có Đức Như Lai xuất hiện ở đời hiệu là Ca Diếp Như Lai Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.

Khi Đức Phật Ca Diếp Như Lai Chuyển pháp Luân dựng ngọn cờ pháp rồi, nguyện xưa của Ngài đã viên mãn, lợi lạc tự tại, khai thị giáo hóa chúng sinh, tất cả việc làm của bậc đại trượng phu và độ tất cả chúng sinh trong chúng Liên Hoa tám vạn bốn ngàn ức loại, đều được sinh lên Cõi Trời.

Sau khi Đức Phật Ca Diếp nhập Niết Bàn, các Tỳ Kheo ở trong Vườn Nai, chỗ Chư Tiên đời trước ở, thuộc thành Ba La Nại, kiến lập pháp môn giải thoát, đều ở nơi đây mà thuyết pháp.

Thuở ấy, tại thành Ba La Nại có một thiện tín Ưu Bà Tắc thọ trì Ngũ Giới. Vị Ưu Bà Tắc này thông suốt ngũ minh và phân biệt các luận ở thế gian một cách rành rẽ. Vị Ưu Bà Tắc này chỗ vị Tỳ Kheo ở trong Vườn Nai hỏi về các ý nghĩa sơ lược. Được hỏi như vậy, các Tỳ Kheo liền thuyết giải rộng rãi.

Vị Ưu Bà Tắc này nghe các Tỳ Kheo giải thích các nghĩa rộng rãi như vậy, tâm rất vui mừng, phát nguyện thế này: Hay thay! Thật là hy hữu! Tôi nguyện ở đời vị lai được pháp giáo hóa như thế này, cũng có thể vì người khác theo thứ lớp phân tích rõ ràng cũng như các vị Tỳ Kheo này.

Đức Phật bảo các thầy Tỳ Kheo: Các thầy phải biết, vị Ưu Bà Tắc thọ Ngũ Giới thuở ấy nay là Đồng Tử Ca Chiên Diên.

Do ở nơi Đức Phật Ca Diếp thọ Ngũ Giới, Ca Chiên Diên làm Ưu Bà Tắc hiểu rõ các pháp ngũ minh một cách vi tế lại vì người khác diễn thuyết phân tích rõ ràng, thuở đó lại phát nguyện: Nguyện đời vị lai thành tựu tất cả các pháp, rồi lại vì người khác diễn thuyết rộng rãi.

Lại nữa, này các thầy Tỳ Kheo, các thầy phải biết, Tỳ Kheo Ca Chiên Diên này do tâm hoan hỷ trồng các căn lành như vậy, nhờ nhân duyên đó nên ngày nay đến gặp ta liền được xuất gia thành A La Hán.

Ta thọ ký ở trong chúng Thanh Văn của ta, là bậc đệ nhất đối với nghĩa tóm tắt, có thể giải bày rộng rãi. Đối với nghĩa rộng rãi có thể tóm tắt, đó là Tỳ Kheo Đại Ca Chiên Diên.

Bấy giờ, ở trong nhân gian có chín mươi hai vị A La Hán: Thứ nhất là Đức Thế Tôn, năm vị Tỳ Kheo Kiều Trần Như. Trưởng Lão Da Du Đà. Bốn vị Trưởng Lão Vô cấu, Thiện Tý, Mãn Túc, Ngưu Chủ, là những vị Thiện Nam rất giàu.

Trưởng Giả tuyệt vời trong số các Trưởng Giả tuyệt vời bạn cũ của Da Du Đà, năm mươi vị thương chủ thanh niên, bạn bè của Da Du Đà từ các phương. Trưởng Lão Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử và hai mươi chín bạn bè, cuối cùng là Trưởng Lão Ca Chiên Diên.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần