Phật Thuyết Kinh Phật Bản Hạnh Tập - Phẩm Mười Ba - Phẩm Tranh Tài Kết Hôn - Phần Hai

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Xà Na Quật Đa, Đời Tùy

 PHẬT THUYẾT

KINH PHẬT BẢN HẠNH TẬP

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Xà Na Quật Đa, Đời Tùy  

PHẨM MƯỜI BA

PHẨM TRANH TÀI KẾT HÔN  

PHẦN HAI  

Bấy giờ, Thái Tử nói với nhà toán học lớn Át Thùy Na: Các ông hãy lắng nghe, số vi trần trong một do tuần có nhiều ít không nhất định.

Số vi trần lần lần chứa đầy trong một A Sô Bà, như vậy lại có một na do tha, lại nữa, hai mươi trăm ngàn ức na do tha, sáu mươi ngàn ức, ba mươi hai ức, năm trăm ngàn, một trăm ngàn. Những số vi trần như vậy tính tổng cộng gồm đủ một do tuần. Như vậy, theo thứ lớp tuần tự mà tính, thì do tuần có lớn nhỏ không nhất định.

Cõi Diêm Phù Đề này cao rộng ngang nhau bằng bảy ngàn do tuần.

Cõi Tây Cù Da Ni rộng tám ngàn do tuần.

Cõi Đông Phất Bà Đề rộng chín ngàn do tuần.

Cõi Uất Đơn Việt rộng mười ngàn do tuần.

Đây là số do tuần cõi tam thiên đại thiên Thế Giới cao rộng như vậy.

Căn cứ vào thứ lớp do tuần lớn nhỏ khác nhau như vậy, ta có thể tính được hoặc bao nhiêu trăm do tuần, hoặc bao nhiêu ngàn do tuần, hoặc bao nhiêu trăm ngàn do tuần. Lại tùy theo mỗi loại do tuần có bao nhiêu số vi trần, tính tổng cộng có thể biết.

Vì sao người ta không biết được số vi trần trong cõi tam thiên đại thiên Thế Giới?

Do vì con số này vượt lên trên tất cả con số thế gian, nên họ cho con số này không thể đếm được, không thể tính biết được.

Nhà toán học lớn Át Thùy Na và tất cả các vị Tôn Tộc của dòng họ Thích vui mừng hớn hở tràn ngập châu thân không thể kềm chế được, họ cởi vô lượng vô biên chuỗi anh lạc và tất cả y phục, chỉ để lại trên thân một bộ, còn bao nhiêu đều đem hiến dâng cho Thái Tử, đồng thời ca ngợi: Hay thay! Hay thay!

Sự hiểu biết của Thái Tử quá cao xa. Trong các phép toán số theo thứ lớp như vậy, Thái Tử lại là bậc Tối Thắng, nghĩa là đối với tất cả sách toán số, trí hiểu biết của Ngài quả là uyên thâm không ai sánh kịp.

Các vị trong dòng họ Thích nói tiếp: Chúng ta ngày nay đã biết Thái Tử đối với tất cả sách toán số là người bậc nhất không ai sánh bằng, kế tiếp theo đây xin Ngài thi môn võ nghệ bằng cách sử dụng các binh khí, để xem ai là người đứng nhất, ai là người trên hết.

Lúc ấy các vị tôn tộc trong Hoàng Gia suy cử một Đại Thần trong dòng họ tên là Sa Ha Đề Bà giữ chức vụ chủ khảo cuộc thi võ, và nói với Đại Thần chủ khảo.

Đại Đức tôn quý khéo dụng tâm xem trong số Đồng Tử, vị nào đứng đầu về môn võ thuật. Các môn thi gồm có: Sử dụng vũ khí, nghe âm thanh, bắn xa, bắn trúng đích, và sức mạnh giương cung.

Bấy giờ, nơi thí trường Đồng Tử A Nan Đà để một chiếc trống sắt cách xa hai Câu Lô Xá làm mục tiêu để bắn. Đồng Tử Đề Bà Đạt Đa để một chiếc trông sắt cách xa bốn Câu Lô Xá làm mục tiêu bắn. Cho đến Đồng Tử Nan Đà để một chiếc trống sắt cách sáu Câu Lô Xá làm mục tiêu bắn.

Vị Đai Thần họ Bà Tư Tra tên là Ma Ha Na Ma để một trông sắt cách xa tám Câu Lô Xá làm mục tiêu bắn. Tuần tự theo thứ lớp, mỗi Đồng Tử đều để trống sắt hoặc xa hoặc gần làm mục tiêu bắn. Còn Thái Tử Tất Đạt Đa để chiếc trống sắt rất dày cách xa mười Câu Lô Xá làm mục tiêu bắn.

Lúc ấy Đồng Tử A Nan Đà trương cung bắn chiếc trống cách xa hai Câu Lô Xá, mũi tên vừa trúng mặt trống cách xa điểm đích và không xuyên qua được.

Đồng Tử Đề Bà Đạt Đa bắn chiếc trống sắt cách xa bốn Câu Lô Xá, mũi tên găm vào mặt trống mà không xuyên qua được.

Đại Thần Ma Ha Na Ma bắn chiếc trống sắt cách tám Câu Lô Xá, mũi tên cũng găm vào mặt trống nhưng cách đích không bao xa và cũng không xuyên qua được.

Các Đồng Tử họ Thích, mỗi người đều để trống sắt hoặc xa hoặc gần làm mục tiêu bắn, các mũi tên của họ đều trúng mặt trống mà không xuyên qua được.

Bấy giờ đến lượt Thái Tử Tất Đạt Đa, khi sắp bắn có vị quan dâng chiếc cung cho Thái Tử, Thái Tử tiếp lấy, rồi dùng tay đè nhẹ thanh cung và kéo dây cung xem thử mạnh yếu thế nào, ngay khi đó cung bị gãy và dây bị đứt, nên Thái Tử hỏi cả hội trường: Ai biết trong nội thành này có chiếc cung nào tốt, đủ sức cho ta sử dụng khỏi phải giới hạn?

Đại Vương Tịnh Phạn hết sức vui mừng, liền đáp: Hoàng Gia mình có.

Thái Tử thưa: Tâu Đại Vương, Ngài nói có, nay chiếc cung ấy ở đâu?

Đại Vương đáp: Tổ phụ của Thái Tử quý danh là Sư Tử Giáp. Ngài có một chiếc cung hiện giờ đang để nơi Thiên Miếu, ngày đêm luôn luôn hương hoa thờ cúng.

Nhưng chiếc cung này, tất cả quyến thuộc họ Thích trong nội thành không một ai trương được dây cung, huống nữa là trương ra để bắn.

Thái Tử thưa: Xin Đại Vương mau mau cho người đến thỉnh mang về đây. Liền sau đó có sứ giả mang chiếc cung đến, trước tiên trao cho các Đồng Tử Hoàng Gia, họ cầm lấy mà không một ai kéo dãn được dây cung, huống nữa là trương cung để bắn.

Kế tiếp đó, Đại Thần Ma Ha Na Ma cố dốc toàn sức mạnh mà cũng không kéo dãn được dây cung, huống nữa là trương cung để bắn. Cuối cùng sứ giả mới dâng cho Thái Tử.

Thái Tử cầm lấy chiếc cung, rồi an tọa trên đất thân không lay động, chỉ dùng một ít sức, tay trái cầm lấy thanh cung, tay mặt nắm lấy dây cung, các ngón tay vừa kéo nhẹ dây cung, phát ra âm thanh vang dội khắp cả thành Ca Tỳ La, lúc ấy tất cả dân chúng nội thành đều kinh hãi, họ hỏi nhau: Tiếng gì vậy?

Hoặc có kẻ nghe người khác nói lại: Thái Tử Tất Đạt Đa đang sử dụng chiếc cung của Tổ Phụ Sư Tử Giáp, Ngài vừa trương dây cung nên phát ra âm thanh như vậy.

Đại Vương Tịnh Phạn thấy vậy, đem vô lượng vô biên bảo vật tặng cho Thái Tử. Thái Tử giương cung lên, tay phải cầm mũi tên dùng sức mạnh như thần, kéo dây cung đưa mũi tên đến giữa ngực rồi mới buông tay.

Mũi tên vượt qua các chiếc trống của ba người: A Nan Đà, Đề Bà Đạt Đa và Đai Thần Ma Ha Na Ma, bay thẳng đến chiếc trống sắt cách mười Câu Lô Xá, xuyên qua cả hai mặt trống, rồi mũi tên biến mất trong hư không.

Lúc ấy Chư Thiên ở trên không trung nói kệ ca ngợi:

Đấng Thiện Tối thắng ở cõi này,

An tọa trên Tòa Phật quá khứ,

Ma Già Đà tất cả dân chúng,

Nay thấy tài bắn tên tuyệt diệu.

Sức trí tuệ Lục Độ viên thành,

Các giặc thù thảy đều hàng phục,

Ấm, Thiên Ma, phiền não tiêu trừ

Sẽ được nhân thường lạc ngã tịnh,

Chân thật đạo bồ đề bất thoái,

Khổ sinh tử rễ kia dứt hẳn,

Khổ già bệnh ưu sầu quét sạch,

Trí nhiệm mầu chứng đắc Niết Bàn.

Chư Thiên nói kệ xong, đem các loại hoa Trời vi diệu rải trên mình Thái Tử, rải rồi bỗng nhiên ẩn thân trong hư không. Lúc ấy chúa Trời Đế Thích ở trong hư không, bắt lấy mũi tên Thái Tử đem về cung Trời Đao Lợi, ở đây đặt ngày lễ cho mũi tên, thường vào những ngày lễ Chư Thiên nhóm họp dùng hương hoa cúng dường, cho đến nay Chư Thiên còn ngày lễ mũi tên này.

Bấy giờ mọi người thuộc dòng họ Thích lại nói: Thái Tử Tất Đạt Đa có tài bắn tên rất xa, đã vượt lên trên tất cả mọi người, xin Thái Tử thử bắn thân cây, xem tên nào xuyên qua được. Lúc ấy cách thí trường chẳng bao xa, bỗng nhiên xuất hiện hàng cây Đa La.

Trong số năm trăm Đồng Tử này, hoặc có người bắn một mũi tên xuyên qua được một thân cây Đa La, hoặc có người bắn xuyên qua hai cây Đa La, hoặc có người bắn xuyên qua ba cây Đa La, hoặc có người bắn xuyên qua bốn cây Đa La, hoặc có người bắn xuyên qua năm cây Đa La.

Lúc bấy giờ Thái Tử cầm mũi tên bắn xuyên qua bảy cây Đa La, mũi tên sau khi xuyên qua cây thứ bảy, lại chạm vào mặt đất gãy làm một trăm đoạn.

Các vị trong dòng họ Thích lại làm hình con heo bằng sắt. Trong số các Đồng Tử có người bắn xuyên qua một con heo sắt, hoặc có người bắn mũi tên xuyên qua hai con, hoặc ba con, hoặc bốn con, hoặc năm con.

Còn Thái Tử cầm mũi tên bắn xuyên qua bảy con heo sắt, khi mũi tên xuyên qua con thứ bảy rồi găm sâu trong lòng đất, chỗ đất mũi tên găm vào phá thành cái giếng, cho đến ngày nay dân chúng còn gọi chỗ ấy là Giếng Mũi Tên.

Quyến thuộc trong Hoàng Gia đặt bảy cái chum bằng sắt, rồi đựng đầy nước. Trong số các Đồng Tử có người dùng mũi tên đầu nung đỏ để bắn, mà mũi tên chỉ xuyên qua một chum, hoặc có Đồng Tử bắn xuyên qua hai chum, hay xuyên qua ba chum, hay xuyên qua bốn chum, cho đến xuyên qua năm chum.

Còn tên lửa nung đỏ của Thái Tử bắn một phát xuyên qua bảy chum sắt đầy nước. Khi mũi tên qua khỏi chum thứ bảy, xuyên qua cánh rừng cây Đại Ba La cách đó chẳng bao xa, khi mũi tên qua rồi rừng này liền thiêu hủy trong nháy mắt.

Các vị quyến thuộc trong dòng họ Thích lại nói: Đối với nghệ thuật bắn tên, Thái Tử là người giỏi hơn tất cả. Nay lại xin tiếp tục thi chặt cây, mà chỉ được chặt một nhát.

Trong số các Đồng Tử, có người tay cầm thanh kiếm chỉ đưa qua một nhát thì cây đứt làm hai đoạn, hoặc có người chặt một nhát ngã hai cây, hoặc ngã ba cây, hoặc ngã bốn cây, hoặc ngã năm cây.

Đến lượt Thái Tử tay cầm thanh kiếm chặt một nhát, thì bảy cây Đa La đứt một lượt, bảy gốc cây Đa La tuy đứt mà thân cây chưa ngã.

Các Đồng Tử Hoàng Gia hô reo lên: Thái Tử không thể chặt đứt một cây nào cả! Liền khi ấy Chư Thiên Cõi Trời Tịnh Cư Sắc Giới, hóa làm ngọn gió mạnh thổi ngã bảy cây Đa La. Kế đến Đồng Tử Nan Đà ôm một bó trúc, mà ruột cây trúc đã luồn sẵn những thanh sắt, đến dâng lên trước mặt Thái Tử.

Thái Tử thấy bó trúc rồi, không cho là trong ruột có sắt, nên không cần phải dùng sức mạnh, tay trái nắm lấy thanh gươm chặt một nhát bó trúc liền đứt làm hai, giống như cánh tay lực sĩ cầm thanh đao chặt một cây trúc hay chặt một mũi tên.

Đúng như vậy! Đúng như vậy! Thái Tử chặt bó thanh sắt được luồn trong cây trúc, cho là bó trúc, tay trái cầm thanh gươm để nhẹ, thanh gươm liền lướt qua bó thanh sắt.

Bấy giờ các vị trong dòng họ Thích nói: Thi chặt cây, Thái Tử là người vượt lên trên hết. Bây giờ tiếp tục thi cỡi voi, với kỹ thuật nhảy lên nhào xuống, xem thử ai là người có tài năng.

Trong số các Đồng Tử, có người từ trước vòi voi nhảy vọt lên lưng, hoặc có Đồng Tử từ dưới chân nhảy vọt lên lưng, hoặc có Đồng Tử từ dưới đuôi nhảy vọt lên lưng.

Trong khi đang nhảy lên có người tay cầm thiết bản to lớn, hoặc có người cầm thiết luân, hoặc có người cầm thiết bài, hoặc cầm giáo mác, trường kiếm. Tay tả cầm khí giới nhảy lên. Khi lên rồi tay phải tiếp lấy ném xuống đất.

Còn Thái Tử khi nhảy lên lưng voi, hoặc đứng hoặc chạy, hoặc hai chân khi thì đứng lên hai ngà, khi thì đạp trên đầu, tay tả nắm các khí cụ, hoặc thiết bản, hoặc thiết luân, hoặc thiết bài, hoặc giáo mác cho đến trường kiếm.

Tay tả cầm lấy thì tay phải phóng xuống đất, hay tay phải cầm lấy thì tay tả phóng xuống đất.

Tất cả Đồng Tử trong Hoàng Gia không tài nào sánh kịp, lại nói: Ta nay cùng nhau thi cỡi ngựa. Trong số các Đồng Tử, có người cầm mác hay cung tên, từ nơi một con ngựa nhảy qua cỡi con ngựa thứ hai, vừa cỡi vừa khai mác, múa kiếm, hoặc bắn tên điểm đích bằng vòng chiếc nhẫn, có người bắn trúng đích, có người bắn không trúng đích.

Hoặc có Đồng Tử phóng mình qua hai con ngựa cỡi con thứ ba, cho đến bắn trúng đích hay bắn không trúng đích.

Hoặc có Đồng Tử lao mình vượt qua ba con ngựa cỡi con ngựa thứ tư, bắn trúng đích hay không trúng đích.

Hoặc có Đồng Tử lao mình qua bốn con ngựa, rồi cỡi con ngựa thứ năm, bắn trúng đích hay không trúng đích.

Lúc bấy giờ Thái Tử tay cầm mác, tay cầm cung tên, phóng mình qua sáu con ngựa, cỡi trên con ngựa thứ bảy, vừa cưỡi vừa bắn tên cho đến mục tiêu bằng đầu sợi lông, sợi tóc đều trúng. Như vậy hoặc ở trên xe theo thứ lớp biểu diễn đủ các nghệ thuật, hoặc nhào trên hư không nhẹ nhàng một cách tài tình.

Hoặc thi âm thanh, hoặc thi ca múa, hoặc thi trào phúng, hoặc thi trò đùa hài hước, hoặc thi nhuộm y phục, hoặc thi nghề kim hoàn làm các đồ bằng ngọc quý giá hoặc thi vẽ cảnh cây lá, hoặc thi hòa hợp các hương thơm, hoặc thi trò Bác dịch, hoặc thi trò: Xu bồ, vi kỳ, song lục, hoặc thi phóng lao, hoặc ném xa, nhảy vọt qua khỏi hầm tất cả các nghệ thuật như vậy đều biểu diễn một cách đầy đủ. Đối với tất cả các môn thi, Thái Tử đều đứng nhất.

Các vị trong dòng họ Thích nói: Chúng ta ngày nay đều biết Thái Tử đối với các nghề, người hoàn toàn đại thắng. Nay ta nên đấu sức với nhau, xem thử ai là người thắng cuộc.

Lúc ấy Thái Tử lui về ngồi một bên, còn các Đồng Tử sắp hai hàng song song cùng nhau đấu sức, theo thứ lớp như vậy có tất cả ba mươi hai ban. Đồng Tử nào đấu xong lui về đứng nghỉ một bên.

Kế đến Đồng Tử A Nan Đà bỗng nhiên đến đứng trước mặt Thái Tử, định đấu sức với Ngài, nhưng nhờ oai đức và thần lực Thái Tử, Ngài vừa đưa tay nắm lấy Nan Đà, Nan Đà không tài nào ngăn được, liền bị ngã nhào xuống đất.

Tiếp đó Đồng Tử Đề Bà Đạt Đa tiến đến trước mặt Thái Tử với cử chỉ đầy tự cao ngã mạn, vì chưa từng so sức với Thái Tử lần nào.

Nay cùng Thái Tử đấu sức, ý muốn ngang hàng, rồi người giương thân dõng dạc lao mình chạy quanh thí trường, rồi chạy nhanh hướng về phía Thái Tử, ý định lao mình vào đánh.

Bấy giờ, Thái Tử không hấp tấp cũng không chậm chạp, Ngài từ từ dụng tâm, tay phải tóm lấy thân Đồng Tử Đề Bà Đạt Đa đưa lên cao khỏi mặt đất, đi chung quanh thí trường ba vòng, rồi xoay tròn thân Đề Bà Đạt Đa trên hư không.

Ngài khởi lòng từ bi để hàng phục tâm cống cao ngã mạn của Đề Bà Đạt Đa, không muốn sát hại, nên Thái Tử từ từ thả nhẹ Đề Bà Đạt Đa nằm trên mặt đất, để cho thân thể khỏi bị thương tích.

Thái Tử lại nói: Chao ôi! Này tất cả các ông, ta chẳng cần đấu sức từng người một, tập trung tất cả các người cùng một lúc đến đấu với ta. Lúc ấy tất cả Đồng Tử sinh tâm kiêu mạn, nên cùng một lúc tất cả Đồng Tử vội vã chạy đến muốn đánh Thái Tử, với những cú đấm chuẩn bị sẵn.

Nhưng tất cả không sao đánh được dưới oai đức và sức mạnh của Thái Tử, họ không chống cự lại, đều té nhào xuống đất.

Mọi người trong dòng họ Thích đều lấy làm ngạc nhiên, nói với nhau: Ít có thay! Ít có thay! Từ sinh ra cho đến ngày nay Thái Tử chưa từng học tập bao giờ, mà nay lại thể hiện đủ các thứ tài nghệ như vậy.

Lúc ấy tất cả khán giả trong thí trường, thấy sự việc chưa từng có như vậy, đồng thanh hô to: Hoan hô! Hoan hô! Hoặc la lên nhiều âm thanh vang dội, đồng thời tung chuỗi anh lạc và y phục cùng nhau vui mừng.

Lúc ấy, vô lượng Chư Thiên trên hư không, đồng thinh nói kệ ca ngợi:

Các Thế Giới khắp cả mười phương,

Có bao nhiêu dũng sĩ anh hùng,

Sức mỗi người đều như Điều Đạt,

Chẳng sánh bằng sợi lông Thái Tử,

Đức Vĩ nhân oai lực vô biên,

Vung cánh tay đụng nhằm đều ngã,

Sức oai thần Thánh Giả không lường.

Làm thế nào các ông sánh lại,

Ví như núi Tu Di sừng sững,

Cùng Thiết Vi lớn nhỏ vững bền.

Với mười phương núi non tất cả,

Ngài đụng vào biến thành tro bụi,

Chất sắt cứng cùng ngọc Kim cương,

Cho đến cả bao nhiêu ngọc quý,

Gặp sức Ngài thảy đều tan nát,

Huống đánh nhằm Đồng Tử các ông.

Chư Thiên nói kệ rồi, lại đem đủ các thứ hoa rải trên mình Thái Tử, rồi liền lập tức ẩn thân biến mất trong hư không. Như vậy đối với tất cả các kỹ nghệ, theo thứ tự đã so tài, Thái Tử đều chiến thắng vượt lên trên tất cả.

Lúc ấy Đại Vương Tịnh Phạn mới biết bao nhiêu kỹ năng của Thái Tử đều thắng vượt lên trên tất cả mọi người, tự mắt mình trông thấy, tâm mình chứng biết, nên vui mừng hớn hở tràn ngập châu thân, vô cùng thỏa mãn không thể kềm chế được.

Vì lòng tôn kính, liền ra lệnh cho người về nội cung, dùng chuỗi anh lạc trang trí bạch tượng thật trang nghiêm, mọi việc phải chu đáo, và Đại Vương nói: Bạch tượng này để đưa Thái Tử, đứa con yêu quý của ta về Hoàng Cung.

Đại bạch tượng để rước Thái Tử về nội thành, khi ra cửa thành gặp Đồng Tử Đề Bà Đạt Đa từ ngoài thành trở về, thấy bạch tượng trang nghiêm, liền hỏi kẻ quản tượng: Voi này sẽ đem cho ai và sẽ đi về đâu?

Kẻ quản tượng trả lời: Bạch tượng này ra khỏi thành để đón Thái Tử về nội cung. Lúc ấy Đề Bà Đạt Đa tỏ vẻ mình thuộc dòng hào tộc tôn quý, hết sức ngã mạn, lại ỷ vào sức mạnh của mình, nên ngang dọc tự thị không kiêng nể một ai, lại thêm tánh đố kỵ với Thái Tử, nên Đồng Tử ở phía trước cách voi chẳng bao xa, chạy đến tay trái nắm lấy vòi, tay phải đập vào trán voi, rồi quật mạnh, voi liền té nhào lăn trên đất ba vòng rồi tắt thở.

Thấy voi to lớn nằm lấp cả cửa thành, cản trở người qua lại, ra vào chẳng được, nên trên đường lần lần chật ních cả người.

Điều Đạt qua rồi, tiếp theo sau là Đồng Tử Nan Đà muốn bước vào thành, thấy bạch tượng chết nằm ngay ngang cửa, thấy voi to lớn bít cả lối đi, dân chúng qua lại không được, Đồng Tử liền hỏi các người chung quanh, ai gây ra sự việc thế này?

Đám đông người đáp: Bẩm Đồng Tử, đại bạch tượng này bị Đồng Tử Đề Bà Đạt Đa giết chết, người dùng tay trái nắm vòi, tay phải đập vào trán, quật mạnh voi liền té nhào lăn xuống đất ba vòng rồi tắt thở.

Nan Đà suy nghĩ: Đồng Tử Đề Bà Đạt Đa thử sức mạnh mình, đã làm cho bạch tượng chết. Nhưng xác voi quá to lớn, chảy nước làm nhơ nhớp cửa thành, cản trở người qua lại, nên Đồng Tử dùng tay phải nắm lấy đuôi voi kéo tới cách xa cửa thành chừng độ bảy bước.

Đi tiếp sau Nan Đà là Thái Tử Tất Đạt Đa.

Khi vào gần cửa thành, Thái Tử thấy bạch tượng chết nằm trước cửa thành, Ngài hỏi người đi đường: Ai giết con bạch tượng này?

Người đi đường đáp: Đồng Tử Đề Bà Đạt Đa đập vào trán voi chết.

Thái Tử lại hỏi: Còn ai kéo voi ra khỏi cửa thành?

Các người đều đáp: Đồng Tử Nan Đà dùng tay phải nắm lấy đuôi voi kéo khỏi cửa thành chừng khoảng bảy bước.

Thái Tử nói: Hay thay! Nan Đà, người làm điều phước thiện.

Rồi Thái Tử suy nghĩ: Hai Đồng Tử tuy đã thi thố sức lực của mình, nay thân voi quá to lớn, sau khi tan ra mùi hôi thối bay vào làm ô nhiễm thành này.

Suy nghĩ như vậy rồi, tay tả nhấc thân voi, tay hữu đỡ phía dưới thân, đưa thân voi lên cao ném ra ngoài thành, vượt qua bảy lớp thành lũy, xác voi rớt xuống cách thành chừng khoảng một Câu Lô Xá, chỗ đất thân voi rớt xuống phá thành một hầm lớn. Cho đến ngày nay, dân địa phương còn tương truyền gọi trũng đất này là hầm voi rớt, tức do tích này mà ra vậy.

Lúc ấy có vô lượng vô biên trăm ngàn dân chúng đồng thanh xướng lên: Ít có thay! Ít có thay! Sự việc như thế này thật hết sức kỳ lạ.

Mỗi người đều nói: Hay thay! Hay thay! Đại Nhân lực sĩ thật là kỳ lạ ít có ở đời, chưa từng thấy nghe.

Rồi nói kệ ca ngợi:

Điềuđạt quật chết bạch tượng rồi,

Nan Đà kéo khỏi thành bảy bước,

Thái Tử tay nâng bổng trên không,

Như cầm hòn đất ném ngoài thành.

Đai Thần Ma Ha Na Ma thấy Thái Tử đầy đủ tài năng trí tuệ, đối với tất cả các môn văn chương, võ nghệ, kỹ thuật đều là người chiến thắng vượt lên trên thiên hạ, liền thưa Thái Tử: Xin Thái Tử nhận sự sám hối của tôi, vì trước đây tôi đã cho Thái Tử là kẻ không có tài năng thiện xảo, đối với các nghề đều không biết, khiến tâm tôi nghi ngờ không gả con gái, giờ này tôi đã thấu rõ, mong Ngài cùng con gái tôi kết nghĩa trăm năm.

Rồi Thái Tử chọn ngày lành tháng tốt, cho người lấy của riêng sắm sửa một cách chu đáo, dùng oai quyền thế lực của một Đại Vương để nghinh rước nàng Da Du Đà La, Thái Tử dùng chuỗi anh lạc trang sức trên thân cùng với năm trăm thể nữ tùy tùng rước nàng về nội cung, cùng nhau vui chơi hưởng thú ngũ dục.

Do vậy có kệ nói:

Dadu là con gái Đại Thần,

Tiếng trùm cả nước xa gần biết,

Thái Tử chọn ngày cưới làm vợ.

Nghinh rước về triều nơi cung điện,

Thái Tử cùng nàng hưởng lạc thú,

Mải mê dong ruổi nào biết chán,

Vui cũng xá chi đại phu nhân.

Một hôm nọ, sau khi Đức Thế Tôn thành đạo, Tôn Giả Ưu Đà Di bạch Phật: Thưa Thế Tôn Như Lai, tại sao thuở trước Thái Tử còn tại triều, khi muốn cưới nàng Da Du Đà La làm vợ, không dùng thế lực của một Nhà Vua, hay thế lực của một dòng họ cao sang, không dùng thế lực giàu sang phú quý, không dùng hình dung tuân tú sắc diện khôi ngô mà cưới nàng, lại chỉ thi thố tài năng trong các kỹ nghệ mà cưới nàng làm vợ?

Đức Thế Tôn bảo Ưu Đà Di: Này Tôn Giả Ưu Đà Di, ông phải chú tâm lắng nghe, chẳng chỉ một đời này ta cưới nàng Da Du Đà La không dùng thế lực của một dòng họ Vua chúa đầy quyền uy cao sang, cho đến không dùng hình dung tuấn tú khôi ngô để cưới nàng, mà chỉ dùng tài năng trong các kỹ nghệ để cưới nàng, cho đến thuở xưa cũng vậy.

Tôn Giả Ưu Đà Di thưa: Bạch Đức Thế Tôn, việc này như thế nào?

Xin Ngài nói cho con nghe.

Đức Phật bảo Tôn Giả Ưu Đà Di: Này Tôn Giả, ta nhớ thuở quá khứ trải qua vô lượng kiếp, lúc ấy tại nước Ba La Nại, có một thợ rèn rất tinh xảo. Người có một đứa con gái dung nhan khả ái, thân hình đoan chánh, khuôn mặt đầy đặn, trong thế gian ít có người thứ hai, rất được nhiều người yêu mến.

Cùng thuở ấy tại thành Ba La Nại có một trưởng giả, sinh hạ một Đồng Tử hình dung đẹp đẽ khả ái như nàng con gái nói ở trên không khác.

Một hôm, con trai trưởng giả tình cờ bắt gặp nàng con gái của người thợ rèn từ bên trong cửa sổ trên lầu cao, đưa mắt ra ngoài ngắm nhìn phong cảnh, chàng công tử thấy rồi đem tâm yêu mến, trong tâm chàng luôn luôn mang hình bóng của nàng, nên vội vã trở về nhà thưa cùng cha mẹ: Kính thưa song thân, người thợ rèn tài giỏi kia có người con gái, con đem tâm thương mến muốn cưới nàng ta về làm vợ.

Vợ chồng trưởng giả đáp: Nay con không nên cưới con gái của người thợ rèn, vì làm như thế ô nhục gia môn của ta. Cha mẹ sẽ tìm một tiểu thơ của một trưởng giả, của một đại thần hay của một cư sĩ khác, cưới làm vợ cho con.

Chàng ta trả lời: Con quyết định không cưới con gái của các nhà đó về làm vợ, ý con chỉ muốn cưới con gái nhà thợ rèn. Nếu không cưới được nàng ta làm vợ, con chắc phải tự tử kết liễu cuộc đời không cần phải sống.

Lúc bấy giờ vợ chồng trưởng giả hết sức lo rầu, sợ đứa con yêu quý tự sát, liền cho sứ giả mời người thợ rèn đến nhà, rồi nói: Ta nghe người có đứa con gái, nay có thể gả về làm vợ con trai ta chăng?

Bác thợ rèn đáp: Thưa ông bà trưởng giả, nay tôi không đồng ý cho con gái tôi kết hôn với kẻ trong tay không nghề nghiệp.

Ông bà trưởng giả lại đáp: Nhân giả sẽ chọn người giỏi tài nghệ gì để phối hợp hôn nhân, mà chẳng lo sợ con gái mình cơ hàn khổ sở thiếu thốn áo cơm hay sao?

Thợ rèn lại đáp: Tuy biết như vậy, nhưng nay tôi chỉ muốn tìm người đồng nghiệp. Nếu chàng trai nào có nghề nghiệp tài giỏi, tôi sẽ gả con gái, giả sử người này không giàu có của cải, tôi chỉ trọng tài giỏi nghề nghiệp, tùy theo khả năng họ sắm sửa, tôi liền gả con gái cho họ.

Ông bà trưởng giả nghe nói như vậy, đem mọi việc như trên nói lại cho con mình nghe. Nhưng lúc ấy con trai trưởng giả đã cùng nàng con gái kia tâm ý hòa hợp, lại thêm chàng giỏi công nghệ, chuyên tâm chú ý, có tài làm kim.

Rồi một hôm chàng ta chế tạo nhiều cây kim, dùng dầu mỡ đánh bóng, sáng láng hết sức đẹp đẽ, gom các kim thành một bó lớn đựng trong ông tre, mang đến nhà thợ rèn tài giỏi kia, khi chàng đến gần cổng làng, đứng nơi đầu đường rao kệ bán kim.

Không nhám, sắt trơn láng,

Đánh bóng ánh trong sạch.

Sản phẩm người thợ khéo,

Có ai mua kim này?

Lúc ấy nàng con gái của bác thợ rèn kia, đang ở bên trong cửa sổ trên lầu cao, nghe con trưởng giả rao kệ bán kim, nàng ứng khẩu thành kệ đáp:

Quái lạ! Kẻ điên cuồng,

Người thật không tâm ý,

Bỗng nhiên đến thợ rèn,

Mà rao muốn bán kim.

Con trưởng giả nói kệ đáp:

Mỹ nhân thật dễ thương,

Ta thật chẳng điên cuồng,

Ta thật người xảo trí,

Có tài làm kim tốt.

Cha nàng đến gặp ta,

Hiểu rõ việc thế này,

Chắc nàng làm vợ ta,

Lại đưa vô lượng của.

Nàng con gái của người thợ rèn tài giỏi, nghe chàng ta nói như vậy, vội vã đến trước cha mẹ thưa: Thưa cha mẹ, con vừa nghe bên ngoài có người to tiếng rao kệ bán kim như trên, muốn đến gặp cha mẹ trình bày nghệ thuật làm kim tinh xảo.

Vợ chồng thợ rèn tài giỏi lập tức cho người kêu người bán kim đến, khi vào đến nơi, ông ta hỏi: Tốt thay!

Này Đồng Tử, người thật biết rành nghề làm kim phải không?

Đồng Tử đáp: Thưa hai bác, con có thể làm được.

Thợ rèn lại hỏi: Ông cho ta xem kim thử thế nào?

Đồng Tử trút từ nơi ống tre ra một cây đưa cho thợ thiếc và nói: Xin bác xem nào!

Thợ rèn thấy kim, liền khen ngợi: Hay thay! Đồng Tử, người có tài làm kim, có tài khoan lỗ.

Đồng Tử nói với người thợ rèn: Thưa bác, có loại kim khác không phải như kim lấy ra từ ống tre, nó tốt hơn kim ấy nhiều.

Đồng Tử liền đưa ra một cây kim khác cho thợ rèn xem, thợ rèn xem rồi lại ca ngợi: Có tài khoan trôn kim rất tốt.

Đồng Tử lại nói: Thưa bác cây này chưa tốt, còn có cây khác tốt hơn. Lần thứ ba này Đồng Tử lại đưa ra một cây kim khác cho người thợ rèn.

Người thợ rèn cũng như bao lần trước dùng lời tốt đẹp ca ngợi: Có tài khoan trôn kim rất tốt.

Đồng Tử lại nói: Thưa bác, cây kim đó chưa phải cây kim tinh xảo, lại có một cây khác tốt hơn. Lần thứ tư Đồng Tử lại đưa một cây kim khác cho thợ rèn xem.

Người thợ rèn xem rồi dùng lời khen ngợi: Rất khéo chế tạo! Có tài khoan lỗ hết sức tốt đẹp.

Đồng Tử lại nói: Thưa bác, cây kim đó cũng chưa phải là cây kim tốt. Rồi Đồng Tử lại đưa một cây khác cho thợ rèn xem.

Người thợ rèn xem rồi, lại dùng lời khen ngợi: Chế tạo rất khéo, trôn kim rất tinh vi.

Đồng Tử lại nói: Thưa bác, kim đó chưa phải sản phẩm tuyệt hảo. Rồi Đồng Tử lại đưa ra cây kim thứ sáu cho thợ rèn xem.

Người thợ rèn xem rồi, lại khen: Đây mới thật là cây kim tối hảo, tối diệu, trôn kim hết sức sắc sảo. Đồng Tử gom tất cả các cây kim để theo từng loại trên bàn tay, rồi bỏ vào trong nước mà kim đều nổi. Người thợ rèn thấy việc hy hữu, chưa từng thấy, chưa từng nghe như vậy, vui mừng hớn hở.

Rồi nói kệ khen Đồng Tử:

Ta chưa từng nghe thấy,

Khéo tạo kim như vậy.

Nay đem tâm hoan hỷ,

Gả con gái cho người.

Lúc ấy Đức Phật bảo Tôn Giả Ưu Đà Di: Này Tôn Giả phải biết, con trai trưởng giả thuở ấy là thân ta ngày nay. Con gái của thợ rèn tài giỏi ấy nay là nàng Da Du Đà La.

Ngay lúc ấy ta cưới nàng làm vợ không dùng thế lực nhà tôn quý, cũng không dùng thế lực dòng họ cao sang, cho đến cũng không dùng hình dung đoan trang tuân tú, chỉ kiểm tra tài khéo léo mà được vợ.

Ngày nay cũng lại như vậy, đối với Da Du Đà La, ta cũng không dùng dòng họ tôn quý hay dung nhan tuấn tú khôi ngô, chỉ dùng việc tranh tài kỹ nghệ mà được nàng.

*** 

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần