Phật Thuyết Kinh Phật Bát Nê Hoàn - Phần Ba
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Bạch Pháp Tổ, Đời Tây Tấn
PHẬT THUYẾT
KINH PHẬT BÁT NÊ HOÀN
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Bạch Pháp Tổ, Đời Tây Tấn
PHẦN BA
Đức Phật ra khỏi nhà ông Thuần, bảo Tôn Giả A Nan đến nước Cưu Di Na Kiệt.
Tôn Giả A Nan thưa: Dạ vâng! Tôn Giả liền cùng các Tỳ Kheo Tăng từ nước Hoa thị đi tới nước Cưu Di Na Kiệt.
Đức Phật bảo: Ta đang bệnh. Cần phải ngồi nghỉ.
Ngài gọi A Nan.
A Nan thưa: Dạ vâng!
Đức Phật nói: Gần chỗ này có một con suối tên là Cưu Đối. Hãy cầm bát đến đó múc đầy bát nước lại đây. Ta muốn uống nước và rửa mặt.
Tôn Giả A Nan liền đến bên suối. Khi ấy có năm trăm cỗ xe đi qua trên dòng nước làm nước rất đục.
A Nan liền múc nước đục đem đến, bạch Đức Phật: Trên dòng nước có đến năm trăm cỗ xe đi qua làm cho nước rất đục. Nước này chỉ có thể rửa mặt, rửa chân chứ không thể uống.
Ở vùng ấy lại có một con suối tên là Hê Liên, nước rất trong, từ đây đến đó cũng không xa, con có thể tới suối kia lấy nước cho Thế Tôn uống.
Đức Phật liền dùng nước đục để rửa mặt, rửa chân. Bệnh của Ngài có phần thuyên giảm.
Bấy giờ có vị Đại Thần tên là Bào Mân, người nước hoa thị, cùng đi trên đường, từ xa trông thấy oai thần của Đức Phật, dung mạo đoan nghiêm, đang ngồi một cách an tịnh.
Đại Thần Bào Mân liền đến trước Đức Phật đảnh lễ rồi ngồi xuống. Đức Phật giảng nói Kinh cho ông nghe và ông rơi lệ khóc lóc.
Đức Phật dạy: Có Tỳ Kheo nào đã từng nói Kinh cho ông nghe chưa.
Vì sao nghe Kinh mà ông lại khóc?
Bào Mân thưa: Có một người tên là La Ca Diêm tụng Kinh cho con nghe, khi ấy nước mắt con tuôn trào.
Đức Phật hỏi: Ông ta tụng Kinh gì?
Bào Mân thưa: La Ca Diêm ngồi bên gốc cây, tự suy tư về thân thể. Lúc ấy có năm trăm cỗ xe đi qua.
Không lâu sau đó có một người đến hỏi: Vừa rồi có năm trăm cỗ xe chạy qua, Tôn Giả không nghe tiếng động sao?
Đáp: Ta không nghe.
Người ấy nói: Gần ngay nơi đây, tiếng xe ầm ầm như vậy, sao lại không nghe?
Đáp: Không nghe.
Người ấy nói: Khi đó Tỳ Kheo ngủ à?
Đáp: Không ngủ.
Người ấy nói: Vậy sao lại không nghe tiếng xe chạy?
Đáp rằng: Ta đang nghĩ đến đạo, tự tư duy về năm tạng trong thân thể mình.
Kẻ ấy nói: Xe chạy qua như vậy mà lại không nghe tiếng xe!
Bào Mân thưa: Con đi nửa đường thì gặp một người đã thuyết pháp cho con nghe. Đó là Tỳ Kheo La Ca Diêm, người giữ đạo thâm diệu, không nghe tiếng ầm ầm của năm trăm cỗ xe chạy qua. Do đấy con cảm phục nên khóc.
Đức Phật nói với Bào Mân: Tiếng của năm trăm cỗ xe chạy so với tiếng sấm sét, tiếng nào lớn hơn?
Bào Mân thưa: Cho dù có ngàn cỗ xe chạy, tiếng động vẫn không bằng tiếng sấm sét.
Đức Phật bảo Bào Mân: Ngày trước ta ở tại xóm Ưu Đàm, ngồi tư duy về nguồn gốc sanh tử của muôn loài.
Bấy giờ trời đang mưa ào ào, sấm sét vang rền dữ dội, làm chết bốn con trâu và hai anh em người đi cày. Khi ấy nhiều người xúm lại để xem. Có một người đi đến chỗ ta, tới phía trước đảnh lễ.
Ta hỏi: Người ta làm gì mà tụ tập đông quá vậy?
Người ấy thưa: Vừa rồi sấm sét đã giết chết bốn con trâu và anh em người đi cày, tại sao Phật không nghe.
Hay là lúc ấy Phật đang ngủ chăng?
Đức Phật trả lời: Ta không ngủ. Ta đang ngồi tư duy về đạo.
Người ấy nói Đạo của Phật sâu xa như vậy, tuy Ngài không ngủ mà vẫn không nghe tiếng sấm sét vang rền dữ dội, là do Ngài đang suy tư về đạo một cách sâu xa. Người đó cũng rơi lệ.
Đại thần Bào Mân thưa: Đạo của Phật sâu xa như vậy, từ nay về sau con xin thọ trì Kinh giới của Phật.
Bào Mân liền gọi kẻ tùy tùng tới, bảo trở về lấy tấm vải dạ dệt bằng kim tuyến đem đến để ông dâng cúng Đức Phật. Kẻ tùy tùng liền trở về nhà đem tấm dạ dệt bằng kim tuyến đến.
Bào Mân dâng lên Phật, thưa: Mặc dù con biết Đức Phật không dùng thứ này nhưng mong Ngài thương xót mà nhận cho con. Đức Phật liền thọ nhận. Bào Mân đảnh lễ Phật rồi đi. Ông đi chưa bao lâu.
Đức Phật bảo A Nan: Hãy mang tấm dạ dệt bằng kim tuyến, có màu vàng lại đây.
Tôn Giả A Nan thưa: Con đã theo hầu Phật trên hai mươi năm chưa hề thấy tấm dạ nào đẹp như vậy.
Đức Phật nói: Còn có cái hết sức đẹp.
A Nan thưa: Sắc mặt của Đức Phật ngày hôm nay đẹp như sắc tấm dạ vậy.
Đức Phật bảo A Nan: Đức Phật có hai lần đạt được sắc diện đẹp như vậy. Đó là lúc Đức Phật mới thành đạo, sắc diện đẹp như thế. Ngày hôm nay vào lúc nửa đêm ta sẽ nhập Niết Bàn nên sắc diện cũng lại đẹp như vậy.
Đức Phật lại bảo A Nan: Hãy đi đến bên dòng suối Hê Liên, ta muốn tắm rửa thân thể.
A Nan thưa: Dạ vâng! Đức Phật cùng A Nan đi đến bên dòng suối Hê Liên. Đức Phật cởi y, tự mình lấy nước để tắm rửa.
Đức Phật bảo A Nan: Sáng nay ta thọ trai nơi nhà con ông Hoa Thị tên là Thuần, rồi vào lúc nửa đêm ta sẽ nhập Niết Bàn.
Hãy nói cho ông Thuần biết: Đức Phật đã thọ trai nơi nhà ông, vào nửa đêm hôm nay Ngài sẽ nhập Niết Bàn. Vậy ông nên hoan hỷ.
Hãy bảo ông Thuần đừng khóc lóc. Nếu ai cúng cơm cho Đức Phật một lần sẽ được năm thứ phước. Đó là bữa ăn cuối cùng trước khi Phật Bát Nê Hoàn.
Vậy ông Thuần sẽ được trường thọ, được đoan chánh, được phú quý, được tôn trọng, được sanh lên Cõi Trời. Đức Phật là bậc đáng tôn kính, ai cúng dường cơm nước cho Ngài một lần là được năm thứ phước trên.
A Nan bạch Phật: Có một Tỳ Kheo tên là Chiên Đàn, tánh tình nóng nảy, ưa chửi mắng, thường tranh cãi với các Tỳ Kheo.
Sau khi Phật Bát Nê Hoàn, con gặp các Tỳ Kheo như vậy làm sao để cùng nhau phụng sự Kinh giới của Phật?
Đức Phật bảo A Nan: Sau khi ta nhập Niết Bàn rồi, nếu gặp loại Tỳ Kheo như vậy thì hãy đừng quan hệ, các Tỳ Kheo hãy đừng nói với kẻ ấy. Như vậy Tỳ Kheo Chiên Đàn sẽ phải suy nghĩ, ôm lòng xấu hổ, hối hận vì thường tranh cãi với các Tỳ Kheo.
Đức Phật bảo Tôn Giả A Nan: Hãy trải giường cho ta, đầu quay về hướng Bắc. Lưng ta đau nhức, ta muốn nằm.
A Nan liền trải giường, đặt gối. Đức Phật nằm nghỉ, nghiêng hông về phía bên phải, hai chân chồng lên nhau. Ngài nằm suy tư về đạo vô vi.
Đức Phật đang nằm, bảo A Nan: Ngươi có biết bảy sự về ý không?
Những gì là bảy?
Một, có chí.
Hai, hiểu rõ Kinh.
Ba, siêng tụng Kinh.
Bốn, không ham nằm, ưa thích Kinh.
Năm, chánh tâm.
Sáu, tịnh tâm.
Bảy, thấy trong thân toàn là đồ dơ bẩn.
Tỳ Kheo có được bảy pháp này thì tự biết là mình đã giải thoát khỏi cuộc đời.
A Nan có ý nghĩ là Phật đang mệt mỏi.
Đức Phật bảo A Nan: Ngươi nghĩ rằng Phật biếng nhác chăng?
Đức Phật bảo A Nan: Người mà không biếng nhác đối với Kinh, không biếng nhác ngồi dậy. Người ấy muốn làm Phật thì có thể. Nói xong, Phật ngồi dậy.
Bấy giờ có một Tỳ Kheo tên Kiếp Tân, đến nói với A Nan: Tôi muốn hỏi một việc.
Tôn Giả A Nan đáp: Thánh thể của Phật không điều hòa, vậy nên thôi đi.
Đức Phật từ bên trong biết có Tỳ Kheo muốn hỏi chuyện, Ngài bảo A Nan: Hãy bảo Tỳ Kheo ấy vào gặp ta.
Đức Phật dạy: Ngươi muốn hỏi gì cứ hỏi.
Tỳ Kheo thưa: Ngài đang bị bệnh, xin đừng thuyết giảng Kinh nữa. Phật đã nói về bảy sự. Chúng con nghe và sẽ thực hành theo. Phật không cần thuyết Kinh nữa.
Vừa rồi ta mới nằm, A Nan nghĩ rằng Đức Phật có ý mệt mỏi, sao lại nằm. Do đó ta ngồi dậy nói về bảy việc.
Tỳ Kheo thưa: Đức Phật là bậc tôn quý của Trời và người, tại sao Ngài không lên Trời lấy thuốc để trị cho hết bệnh?
Đức Phật dạy: Như ngôi nhà cũ, thời gian lâu đều bị hư nát, nhưng Đại Địa thì sẽ tiếp tục an ổn. Tâm của Phật thì an ổn như đại địa, còn thân của Phật thì như ngôi nhà cũ. Tâm ta không bệnh, chỉ có thân ta mới có bệnh thôi.
Đức Phật dạy: Hãy lo về bảy sự, lo cho thân mà giữ giới.
Tỳ Kheo thưa: Nay Phật sắp nhập Niết Bàn vì thân có bệnh, huống chi là người phàm phu có xác thịt!
Tỳ Kheo thưa: Loài chim yến sanh con, nhờ cha mẹ đút mồi mà được sống. Nay Đức Phật bỏ chúng con mà nhập Niết Bàn, vậy chúng con biết nương cậy vào ai.
Đức Thế Tôn bảo: Ta đã từng nói rằng: Có sanh thì có tử. Tỳ Kheo nên nhớ việc thọ trì trọng giới của Đức Phật. Tỳ Kheo ấy lui ra.
Đức Phật bảo Tôn Giả A Nan: Hãy đi nhanh đến rừng Diêm Kha Sa trải giường, đầu quay về hướng Bắc, vào lúc nửa đêm hôm nay ta sẽ nhập Niết Bàn.
A Nan vâng lời đi đến đó, đặt giường ở trong rừng, đầu quay về hướng Bắc xong, trở về thưa: Con đã trải giường xong. Đức Phật đứng dậy đi đến Diêm Kha Sa, nằm lên giường, hông nghiêng về phía hữu. Có một Tỳ Kheo tên là Ưu Hòa Hoàn, đến đứng ở trước Đức Phật.
Đức Phật bảo: Không nên đứng phía trước ta!
A Nan bạch Phật: Từ khi con đích thân làm thị giả đến nay là hai mươi lăm năm, con chưa từng thấy có Tỳ Kheo nào đi thẳng đến trước Phật mà không hỏi ý con.
Đức Phật bảo: Tỳ Kheo này có oai thần lớn hơn cả Chư Thiên, nghe Phật diệt độ cho nên mới nóng lòng tự mình đến thẳng phía trước, muốn gặp Phật.
A Nan hỏi: Chỉ có vị Thiên này biết Phật sắp diệt độ hay lại có các vị Thiên khác cùng biết?
Đức Phật bảo A Nan: Từ cảnh giới nước Cưu Di Na Kiệt, trong khoảng bốn trăm tám mươi dặm, đầu này nối tiếp đầu kia, không có một kẽ hở, đều là Chư Thiên.
Nghe Phật sắp Niết Bàn, họ đều thương tiếc, khóc lóc mà đi đến đây.
Trong đó có vị cào đầu, bứt tóc, xé áo, tim muốn ngừng đập, ngất xỉu, than rằng: Sao mà buồn quá! Đức Phật đã bỏ chúng ta.
Ngài đã diệt độ vĩnh viễn! Sao mà nhanh thế! Phật là bậc sáng suốt tột bậc, là con mắt của ba cõi, nay Ngài đã nhập Niết Bàn, ba cõi thành tối tăm.
Đức Phật bảo A Nan: Ta đã từng nói rằng: Trong Trời Đất này chẳng có cái gì mà chẳng bị hủy hoại. Có sanh thì có tử. Kẻ ngu si thì cho rằng Trời Đất này là thường còn, Phật thì cho đó là hư không.
Đất Trời có thành thì có hoại, thân này rồi cũng phải bỏ đi. Chỉ có thiện hay ác đi theo thân.
Cha có điều xấu ác, con không bị tai ương. Con có điều xấu ác, cha cũng không bị tai ương. Mỗi người phải tự nhận lấy sự sống chết, thiện hay ác, tai ương hay lỗi lầm, tất cả đều tùy thuộc vào mình.
A Nan bạch Phật: Sau khi Phật diệt độ, cách thức an táng thân thể của Phật phải làm như thế nào?
Đức Phật bảo A Nan: Ngươi hãy im lặng, đừng lo. Sẽ có các Thệ tâm, Lý Gia cùng nhau lo việc đó.
A Nan thưa: Họ theo phương thức gì để an táng tôn thể của Đức Phật?
Đức Phật bảo A Nan: Phương thức an táng cũng như phương thức an táng của Hoàng Đế Phi Hành. Đức Phật còn hơn thế nữa.
Tôn Giả A Nan thưa: Phương thức an táng ấy như thế nào?
Đức Phật bảo Tôn Giả A Nan: Lấy dạ trắng mới quấn quanh thân, tiếp đến lấy mười tấm vải kiếp ba quấn lên trên dạ trắng, rồi đặt vào trong kim quan bằng bạc, dùng nước hoa rưới lên vải kiếp ba.
Lại dùng tất cả loại hương tốt để lên trên, lấy củi cây Tử, cây Chương, cây Chiên Đàn chất chung quanh kim quan.
Dùng lọng che lên kim quan, lấy củi chất trên dưới rồi trà tỳ. Trà tỳ xong thì thu lấy Xá Lợi, dựng Tháp, treo phan, tại ngã tư đường, đặt cái mâm lên trên.
Trống nhạc, hoa hương, đốt đèn cúng dường. Phương thức an táng của Phi Hành Hoàng Đế là như vậy. Cách thức an táng Đức Phật còn hơn thế nữa.
Khi Đức Phật nói như vậy, A Nan đứng ở phía sau Ngài tiếc thương khóc lóc, đặt đầu trên góc giường, thưa: Ngài diệt độ sao mà nhanh quá! Đất Trời trở nên tối tăm. Khắp bốn phương, các Tỳ Kheo Tăng nghe Đức Phật sắp diệt độ đều khóc lóc trở về.
Họ nói với nhau: Sợ không còn thấy được Phật. Có Tỳ Kheo Tăng bước đến.
Đức Phật hỏi: Tỳ Kheo A Nan ở đâu?
Thưa: Tôn Giả A Nan ở gần sau góc giường, đang cúi đầu khóc nghẹn ngào.
Các Tỳ Kheo chảy nước mắt thưa: Đức Thế Tôn diệt độ sao mà nhanh quá!
Đức Phật dạy: Lúc đi qua các thôn xóm, ta đã có cho biết trước rằng: Khoảng chín mươi ngày trở lại ta sẽ nhập Niết Bàn. Lúc này, bốn chúng đệ tử ở xa vài ngàn dặm, tất cả đều trở về.
Đức Phật bảo A Nan: Chớ có buồn rầu. Sở dĩ như vậy, vì ngươi đã hết lòng hầu Phật trên hai mươi năm. Có tâm từ đối với Phật. Thân thì cung kính, miệng thì thận trọng.
Có lòng đại hiếu đối với Phật. Thị giả của Phật thời quá khứ cũng như A Nan, thị giả của Phật thời vị lai cũng như A Nan.
Ngươi biết ý Phật. Biết lúc nào nên cho Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di vào gặp Phật, lúc nào thì không nên cho.
Trong công việc hầu hạ chuyện ăn uống, lúc nào nên ăn, nên uống, khi nằm, khi đứng, luôn hợp với ý của Phật, chưa từng mất oai nghi.
Tỳ Kheo hay hàng Thệ tâm nào thích nghe Kinh hay không thích, A Nan nói ra đều chân thật.
A Nan đã hết lòng hiếu thuận đối với Phật, vậy thì khóc lóc làm gì?
Đức Phật bảo các Tỳ Kheo: Hãy lắng nghe bậc Phi Hành Hoàng Đế có bốn đức khó làm.
Những gì là bốn đức?
Các tiểu Quốc Vương và các Thệ tâm, Lý gia cùng các dân chúng, đến dưới cửa Vua.
Phi Hành Hoàng Đế đều gặp họ, bằng tâm hòa thuận, dịu dàng để chỉ dạy, thuyết giảng phương pháp trị nước cho các Vua, là phải tri túc, đừng cầu mong. Còn sự hành trì của hàng Thệ tâm thì lấy sự thanh tịnh làm đầu.
Các Lý gia và dân phải đến chỗ thờ Phật để nghe Sa Môn giảng dạy về cách sống chân chánh, nơi nhà thì phải tu hạnh hiếu thuận, theo chỗ an định, dùng tâm từ ban bố cho tất cả.
Các Vua, Thệ tâm, Lý gia và thứ dân không ai là không hoan hỷ, khen ngợi Thánh Đế đã làm cảm động cả Chư Thiên. Phi Hành Hoàng Đế có bốn đức như vậy.
Tỳ Kheo A Nan cũng có bốn đức: Nếu có trừ cận nam, trừ cận nữ, Thanh Tín Sĩ, Thanh Tín Nữ đi đến chỗ A Nan để hỏi Kinh giới thì A Nan có thể trình bày quảng diễn cho họ một cách đầy đủ.
Bốn chúng đệ tử chẳng ai là chẳng hoan hỷ cáo từ lui ra. Họ đều hết lời khen ngợi. Đó là đức thứ nhất trong bốn đức của A Nan.
Lại có bốn chúng đệ tử không hiểu sự thâm diệu của Kinh, đi đến chỗ của A Nan để hỏi những điều còn nghi.
A Nan giải thích rõ các mối nghi của họ, chỗ nào cũng được khai mở, khiến người nghe không chán, khi ra về, không ai là không khen ngợi. Đó là đức thứ hai trong bốn đức của Tôn Giả A Nan.
Các bậc cao đức trong bốn chúng nhìn thấy A Nan đứng hầu bên trái Đức Phật, ai cũng hết lời khen ngợi. Đó là đức thứ ba trong bốn đức của A Nan.
Đức Phật thuyết giảng Kinh, bất luận nhiều hay ít, A Nan đã nghe qua đều nhớ nằm lòng rồi truyền lại cho bốn chúng, hoàn toàn không thêm bớt. Đó là đức thứ tư trong bốn đức của A Nan.
A Nan bạch Phật: Cách đây không xa có những Quốc Độ như nước Xá Vệ, nước Sa Chi, nước Đàn Ba, nước Vương Xá, nước Ba La Nại, nước Duy Da Lê. Nơi các nước lớn ấy, văn minh nghĩa giáo đầy đủ, mong Đức Phật nên đến những chốn đó để diệt độ.
Sao Ngài không tới các nước lớn ấy mà chọn một huyện nhỏ, lại còn ở ngoài của thành, một xóm thưa thớt, một huyện thấp hèn, để nhập Niết Bàn?
Đức Phật bảo A Nan: Đừng bảo đây là một xóm nhỏ.
Vì sao như vậy?
Vào thời xa xưa ở xứ Cưu Di Na Kiệt này có tên là Cưu Di Việt Vương.
Khi ấy trong nước hết sức an lạc, không có các bệnh tật, lúa thóc dồi dào, dân chúng đông đúc, cuộc sống sung túc, trong nhà có con hiếu thảo. Thành từ Đông sang Tây dài bốn trăm tám mươi dặm, thành Nam Bắc dài hai trăm tám mươi dặm.
Thành có bảy lớp đều dùng ngói nung nhiều lớp ghép lại, dùng vàng ròng, bạc trắng, lưu ly, thủy tinh để làm tường thành, cũng dùng bốn loại báu làm ngói lợp. Thành cao sáu trượng bốn thước, ở bên trên rộng hai trượng bốn thước. Trong thành có cây báu, hoa phát ra ánh sáng năm màu.
Đường đi có ba lối, hai bên đều dùng bốn báu để lót đường, có ngói lợp lên trên, hai bên là nhà ở, điêu khắc chạm trổ đẹp đẽ giống như trên Cõi Trời. Có các thứ âm nhạc, các loại đờn cầm, đờn sắt do nam nữ thuần nhất ca ngợi đạo đức.
Nhạc về đạo có mục đích giúp cho trí tuệ thêm sáng suốt, khiến dân chúng không có ưu sầu, sợ sệt, tâm thường hoan hỷ. Trên đầu họ không có trang điểm nhưng hương trí tuệ tỏa khắp.
Vị Thánh vương ở cõi này tên là Đại Khoái Kiến, hiệu là Phi hành Hoàng Đế, điều khiển binh đội thông minh nhất thế gian, dùng đạo trị dân, dân chúng không trái với vương pháp. Nếu dân chúng muốn phi hành, hễ nghĩ thì thân liền bay đến đó.
Nhà Vua có bảy báu, tự nhiên sanh ra: Bánh xe bằng vàng báu bay được. Voi trắng có thần lực. Ngựa thần màu xanh. Ngọc Minh Nguyệt. Vợ là Ngọc Nữ ở trên Trời. Quan là bậc Thánh chủ kho báu. Quan là bậc Thánh coi về binh.
Nhà Vua có bốn đức. Lúc còn thơ ấu, lúc làm Thái Tử, lúc lên ngôi Vua, lúc bỏ nước, lúc diệt dục làm Sa Môn, đều trải qua mỗi thời kỳ là tám vạn bốn ngàn năm. Đó là đức khó có của Vua Đại Khoái Kiến.
Khi ăn uống thì tiêu hóa, thân thể không có bệnh lâu, lạnh nóng điều hòa, thân ý thường được an vui. Đó là đức thứ hai của nhà Vua.
Dung mạo oai nghiêm, khí sắc hơn đời, chỉ kém thua Đế Thích một chút, Vua cho là không bằng. Đó là đức thứ ba của nhà Vua.
Khắp cả vòm Trời, trọn cả cõi đất, người dân từ lớn chí nhỏ không ai là không yêu kính nhà Vua, giống như người con chí hiếu mong cho cha mẹ đều được an lạc.
Nhà Vua cũng đem tâm thương yêu chúng sanh, xem tất cả như con đẻ. Nếu ai nghèo thì Vua cho tiền của, đói cho ăn, khát cho uống.
Già mà khốn cùng, nhỏ mà cô quạnh đều khiến cho ở chung như là quyến thuộc thân thích. Dùng nhà cửa, xe cộ để cứu tế khẩn cấp cho tất cả. Đó là đức thứ tư của nhà Vua.
Trong nước thường nghe mười hai loại âm thanh, đó là tiếng voi, tiếng ngựa, tiếng bò, tiếng xe, tiếng loa, tiếng trống, tiếng múa, tiếng ca, tiếng nhạc, tiếng ca tụng nhân nghĩa, tiếng khen Phật là bậc tôn quý.
Dân chúng trang sức bằng các thứ châu báu dệt thành như vô số loại ngọc Minh Nguyệt, chuỗi anh lạc chiếu sáng, ăn uống ca nhạc giống như Cõi Trời Đao Lợi. Dân chúng luôn được sống trong cảnh yên vui, sung sướng.
Khi nhà Vua muốn đi du ngoạn thì bảo vị quan giữ xa giá tên là Tu Đạt.
Nhà Vua bảo: Hãy chạy xe từ từ!
Lâu rồi mà ta không gặp các Thệ tâm, Lý gia. Nay ta muốn gặp họ.
Các Thệ tâm, Lý gia nghe nhà Vua đang đi. Người có đeo ngọc minh châu, bạch ngọc, bích ngọc, thanh ngọc, san hô, chiên đàn, các loại hương nổi tiếng liền đem dâng cho Thánh Vương.
Nhà Vua không muốn nhận, nhưng những người ấy đều thành kính van nài, do đó nhà Vua mới nhận.
Vua ra lệnh cho vị quan coi về kho báu trả giá gấp đôi những vật đó. Dân chúng lớn nhỏ đều dùng các thứ hương hoa báu rải khắp trên mặt đất, chúc Vua sống lâu vô lượng.
Các Tiểu Vương có đến tám vạn bốn ngàn người, nghe Phi Hành Hoàng Đế muốn bố thí đều đến để phụ giúp. Họ đến đại điện, Hoàng Đế muốn cùng các Vua đều lên chánh điện.
Các Vua từ chối, thưa: Các nước của chúng thần đều có cung điện báu.
Hoàng Đế nói: Cung điện nhỏ của các vị không có gì đáng để nói. Hãy xem Minh Điện, theo ta mà lên, đừng sợ.
Hoàng Đế có chiếc xe báu và các Tiểu Vương cũng vậy. Xe cao mười trượng có bốn bánh, từ trên xuống dưới đều làm bằng bảy báu, bên trên thì treo tràng phan màu sắc sáng chói phản chiếu nhau.
Xe này do sáu con ngựa kéo, những con ngựa ấy đều bay được. Đặc biệt có một chiếc xe của nhà Vua đi do hai con ngựa mình trắng bờm và đuôi đen nhưng xe tự nhiên chạy.
Xe đó gọi là Câu La Kiệt, để Thánh Đế cỡi. Tám vạn bốn ngàn xe đều đi trước dẫn đường cùng đến Minh Điện.
Minh điện tên là Ba La Sa Đàn, ngang dọc bốn mươi dặm, dùng hoàng kim, bạch ngân, lưu ly, thủy tinh làm tường, dùng bốn loại báu làm trụ, lấy ngói vàng ròng, bạch ngân, lưu ly, thủy tinh lợp lên.
Có năm mươi lớp tam cấp đều dùng hoàng kim, bạch ngân, lưu ly, thủy tinh tạo thành. Các xà nhà, cột chống đều làm bằng hoàng kim, bạch ngân, lưu ly, thủy tinh.
Trong điện có tám vạn bốn ngàn cái giường, tất cả đều làm bằng vàng ròng, bạch ngân, lưu ly, thủy tinh. Các thứ màn che cũng được làm bằng các loại báu ấy.
Có những thứ nệm dệt bằng vàng ròng, bạch ngân, lưu ly, thủy tinh, hoặc dệt bằng nhung đỏ, tất cả đều dùng để trải lên giường. Còn gối thì do những tay nghề trên Cõi Trời dệt thành.
Này A Nan, tường vách quanh cung điện có bốn lớp: Tường bằng vàng ròng, tường bằng bạch ngân, tường bằng lưu ly, tường bằng thủy tinh.
Ao tắm được làm bằng bốn thứ báu, chu vi bốn mươi dặm. Hễ ao bằng vàng ròng thì đường cấp lên xuống bằng bạch ngân.
Hễ ao bằng bạch ngân thì đường cấp lên xuống vàng ròng. Hễ ao bằng lưu ly thì cấp bằng thủy tinh. Hễ ao bằng thủy tinh thì cấp bằng lưu ly.
Trong ao tự nhiên sanh hoa sen có bốn màu: Xanh, hồng, tía, trắng thường nở trong ao suốt mùa hè. Bên ngoài thì có cây hoa tỏa hương thơm ngát.
Phía dưới cung điện có bốn con đường, đều dùng bốn báu để làm lan can cho hai bên lối đi, mỗi lan can dài hai mươi dặm. Trước cấp bậc của Cung Điện có bốn cây báu, mỗi cây cao bốn mươi dặm, bóng cây che phủ cả mặt đất.
Cây bằng vàng ròng thì lá bằng bạch ngân, cây bằng bạch ngân thì lá bằng vàng ròng, cây bằng lưu ly thì lá bằng thủy tinh, cây bằng thủy tinh thì lá bằng lưu ly.
Nhà Vua ở dưới cung điện để tự suy nghĩ, không ở trên điện, dùng lời lẽ ôn hòa nói với các Vua, các Vua đều không dám lên điện.
Vua Đại Khoái Kiến ra lệnh cho quan hầu cận thỉnh các Sa Môn, Thệ tâm hiểu Kinh, trì giới lên điện trước nhất. Trên điện đã dọn đủ thứ đồ ăn thượng vị, lại còn ban tặng ngọc báu quý giá.
Các Sa Môn, Thệ tâm đi rồi nhà Vua liền đắm chìm trong tư duy:
Thọ mạng là vô thường. Ngài và một người hầu cùng lên Minh Điện, bảo: Ta muốn các phu nhân, kỹ nữ, cận thần, các Vua hãy lui ra.
Nhà Vua ngồi trên giường bằng vàng ròng, chân để trên ghế bằng bạch ngân, tự mình suy niệm một cách sâu xa về hành động của sự dâm dật, nào có ích gì cho ta mà kẻ ngu si phần nhiều tham đắm, không biết đó là tai họa.
Nay ta tuy thọ đến ba mươi ba vạn sáu ngàn năm, nhưng cái gì có thạnh thì sẽ có suy, có hợp hội thì sẽ có sự chia ly. Thân là loại mục nát rồi trở thành tro bụi mà thôi.
Nay bốn điện báu này, ai có thể bảo tồn lâu dài được?
Đối với một thân ta chỉ cần một cái nhà nhỏ để ở là đủ, cần gì phải dùng đến cung điện bốn mươi dặm và tám vạn bốn ngàn cái giường?
Nhà Vua từ nơi giường bằng vàng ròng bước đến giường bằng bạch ngân, để chân lên ghế bằng vàng, chỉ suy tư về con người để khiến cho tâm tham lam, ganh ghét, giận dữ, ngu si, tà dâm được thanh khiết, vì bốn sự phi thường luôn hủy diệt nên chẳng cái gì tồn tại.
Quán thấy thế gian là vô thường, vậy thân ta làm sao mà tồn tại lâu dài được?
Nhà Vua từ giường bằng bạch ngân đi đến giường bằng lưu ly, để chân lên ghế thủy tinh, nói: Ngọc nữ nơi hậu cung của ta có đến tám vạn bốn ngàn người, ta sẽ bảo lui về hết, dùng họ chỉ thêm sự trói buộc. Người nữ chứa đầy sự xấu ác, hãy bỏ đi chớ để cho tâm ý bị ô uế.
Nhà Vua từ giường lưu ly bước đến giường thủy tinh, đặt chân lên ghế lưu ly, lại tư duy về: Vạn sự đều xấu ác, chỉ có pháp vô vi là an lạc. Hãy trừ bỏ tâm ý ô trược nơi ta, hãy cầu đạo vô vi.
Nay ta tuy làm Hoàng Đế Phi hành cao quý như vậy, nào có ích gì cho thân?
Người hầu đến trước nhà Vua thưa: Các Ngọc nữ báu hỏi nhà Vua ở trong điện sao lâu quá, họ đều muốn tới trước để bái yết nhà Vua.
Vua bảo người hầu: Ra lệnh cho vị quan coi về kho báu bảo với các phu nhân ai về nhà nấy, hãy mang theo trong người các thứ châu báu danh tiếng tùy theo ý muốn. Còn các vị Vua, quần thần, ngựa Trời, voi báu, đều bảo là lui ra hết.
Vua Đại Khoái Kiến liền bước lên lầu cao, từ xa nghe thấy các thứ âm thanh than Trời, trách đất.
Vua hỏi: Tiếng gì thế?
Người hầu thưa: Đó là tiếng kêu than khóc lóc của đám Ngọc nữ nhà Trời, các vị Vua, đám quần thần, cả voi báu, ngựa Trời. Tất cả đều hết lòng luyến mộ Thiên Vương, không một ai có thể rời bước được.
Vua bảo: Hãy đem cái ghế nhỏ lại đây, đặt ở dưới điện, mời Ngọc nữ báu, các vị Vua, bá quan, các thứ voi báu, ngựa báu và kẻ hầu. Đệ nhất Hoàng Hậu ngồi cạnh nhà Vua.
Vua lại bảo các thể nữ xinh đẹp hầu hạ các phu nhân.
Hoàng Hậu giơ tay chỉ các nữ báu, nói: Dung nhan của các thiên nữ tươi đẹp lạ thường, thân mặc y phục của Trời, thế gian thật ít thấy! Mong Ngài hãy nên lưu tâm!
Có voi báu, ngựa Trời. Ngựa tên là Hoàn Thanh.
Các thứ anh lạc báu như: Bạch Châu, Dạ Quang hiện rõ soi sáng cả nước. Các vị Vua khắp bốn phương đều cần có ánh sáng của Bậc Thánh Nhân để họ kính thờ, xưng mình là bề tôi, hết lòng hiếu thuận, trung hậu, ái mộ thiên vương.
Vua Khoái Kiến bảo: Ta đời đời vốn có tâm từ bi. Người nữ trong thế gian ganh ghét nhau, gây tai ương xấu ác cùng khắp, làm ảnh hưởng lâu dài đến thân Vua, đó chính là tai họa lớn. Ta muốn xa lìa. Từ nay về sau, nếu gặp các người nữ thì ta xem họ như là em gái của ta.
Các phu nhân cùng than khóc, thưa: Tại sao đang lúc còn sống lại nỡ xa lìa chúng tôi?
Tất cả đều vứt hết đồ trang sức nơi thân, ngã nhào xuống đất.
Hoàng Hậu thì càng áo não, sầu thảm, nói: Này Thiên Vương, vậy chúng tôi biết nương tựa vào ai?
Vua bảo: Mạng người rất ngắn, nhưng sự lo buồn lại nhiều. Thân là vật hư nát, chẳng biết chết đi lúc nào.
Từ nay ta giữ tâm, sùng kính uy đức của bậc Sa Môn, xa lìa cả những người nữ thân thuộc, chỉ có đạo là tôn quý, tự lo tu thân không thể lo các chuyện khác được.
Ngài lại nói với các vị Tiểu Vương: Mạng người ngắn ngủi nhưng sự lo buồn thì dài, nên tự thương lấy thân mình, hễ có sanh thì có tử. Hãy giữ tâm hạnh chân chánh, từ ái, hiếu thuận, sự vinh hoa khó giữ mãi được.
Các tiểu Vương đều cúi đầu, chí thành thưa: Các nước trong bốn cõi thiên hạ đều trông cậy vào Thiên Vương. Thường nghe các Bậc Thánh từng khen ngợi về vùng đất này, không thể nêu rõ hết được.
Vua và trăm quan hẳn là Thần Thánh nên châu báu của đất nước này nhiều khác nào như trên Cõi Trời.
Vậy Thiên vương nên dốc lòng thương xót chúng dân mà thay đổi Thánh ý đó đi!
Nhà Vua bảo các Tiểu Vương: Tuổi thọ con người rất ngắn, mà nỗi lo lắng của người Đời thì lại nhiều. Hãy tự lo cho thân mình, mạng người chỉ trong hơi thở.
Hễ có sanh thì có tử, hãy lìa bỏ hành vi tham dâm, uế trược đi!
Nhà Vua đứng dậy đi lên Cung Điện, ngồi trên giường bằng vàng ròng, giữ tâm từ bi rộng lớn hướng về các phu nhân, trăm quan, các Tiểu Vương, dân chúng, voi, ngựa, mọi loài lao khổ trong mười phương. Đem tâm từ bi thương xót, muốn khiến cho họ biết đến Phật.
Rồi Ngài từ giường bằng vàng đi đến giường bằng bạc, suy tư về đạo vô vi. Từ giường bằng bạc Ngài đi tới giường bằng lưu ly, suy tư về hạnh từ bi nhằm cứu vớt chúng sanh.
Từ giường lưu ly, Ngài lại đi tới giường thủy tinh, suy tư về hạnh đại hiếu, muốn cứu độ những người thân trong vô số kiếp. Tự mình suy tư về toàn bộ cơ thể trong con người là dơ nhớp.
Nhà Vua bảo: Ngày xưa ta đã từng mắc một chứng bệnh như có sợi dây bằng tre siết nơi cổ, như dùi gỗ xuyên qua thân.
Thân là đồ chứa sự khổ, đâu đủ để làm chỗ nương tựa?
Đức Phật bảo Tôn Giả A Nan: Hoàng Đế Phi hành Đại Khoái Kiến ấy chính là thân ta. Nhà Vua sau khi mãn tuổi thọ thì sanh lên Cõi Trời Phạm Thiên.
Ai biết thân Phật đã từng làm Hoàng Đế Phi hành, tu tập chánh pháp?
Lại có bốn đức, bảy thứ báu tự nhiên xuất hiện. Từ cảnh giới Cưu Di Na Kiệt dài bốn trăm tám mươi dặm, rộng hai trăm tám mươi dặm, đều ở tại trong thành này. Trước đây ta từng bảy lần đem thân mình gắn bó với vùng đất này.
Nay ta đã đoạn trừ được. Tâm mong cầu các định về niệm, không, vô tướng, cắt đứt nguồn gốc của sanh tử. Từ nay về sau ta không còn tái sinh nữa.
Này A Nan, ngươi hãy vào thành báo cho dân chúng biết: Hôm nay, vào lúc nửa đêm, Như Lai sẽ nhập Bát Nê Hoàn. Nếu ai có điều gì nghi ngờ, hãy gấp đi đến để Đức Phật giảng giải cho, đừng để sau này phải hối hận mãi. Rằng Phật ở tại xóm nhỏ, mà chúng không đến thọ bẩm lời dạy.
A Nan như lời Phật dạy, đi báo cho dân chúng biết.
Dân chúng vô cùng ngạc nhiên, thưa: Đức Phật vì sao lại ở tại một xóm nhỏ để diệt độ?
Mọi người nghe tin, ai cũng than thở, khóc lóc, vừa ngạc nhiên, vừa thương tiếc, cùng bảo: Cớ sao như vậy?
Nhà Vua nghe biết sự việc này, ngạc nhiên hỏi: Vì sao ở đây có sự than khóc?
Vua bèn sai quan hầu ra ngoài dò hỏi?
Dân chúng nức nở, nghẹn ngào tâu: Tôn Giả A Nan cho biết là: Đức Phật sắp diệt độ, ai còn nghi ngờ điều gì hãy đến để thưa hỏi. Do đó nên chúng tôi than khóc.
Quan hầu trở về tâu với Vua: Tôn Giả A Nan báo cho dân chúng vùng này biết là Đức Phật sắp nhập Niết Bàn, hãy đến để hỏi những chỗ còn nghi ngờ. Vì thế nên họ khóc lóc.
Nhà Vua liền cho gọi Thái Tử A Thần, bảo: Con hãy đi đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài, cung kính thăm hỏi tin tức, thỉnh nguyện Đức Thế Tôn hãy chọn nơi chánh điện để nhập Niết Bàn, đừng ở chỗ xóm nhỏ hẹp ấy.
Thái Tử thưa: Nếu Đức Thế Tôn không đồng ý thì phải làm thế nào?
Vua bảo: Hãy thọ giáo và trở về cùng thật nhanh. Thái Tử đi đến chỗ Đức Phật.
Tôn Giả A Nan thưa với Đức Phật: Quốc Vương nước Cưu Di Sai Thái Tử đến, con chưa dám cho vào.
Đức Phật nói: Hãy cho vào.
Thái Tử vào, gieo năm vóc xuống đất, cung kính đảnh lễ sát chân Phật rồi quỳ dài thưa: Nhà Vua bảo con đến đảnh lễ Phật, cung kính hỏi thăm tin tức. Chúng sanh bị đắm chìm nơi vực thẳm mênh mông, chỉ có Đức Phật mới cứu vớt được.
Nay Đức Thế Tôn sắp diệt độ, sao mà nhanh quá!
Ngài nên chọn nơi Hoàng Cung mà nhập Niết Bàn, chớ nên ở nơi xóm nhỏ.
Đức Phật bảo A Thần: Cám ơn phụ vương của Thái Tử. Ta đã từng nói ngày trước ta là Hoàng Đế Phi Hành, là vị Thánh Đế sau cùng, tên Đại Khoái Kiến. Ta đã từng bảy lần gắn bó với vùng đất này.
Lần đây nữa là thứ tám. Nay ta đã thành đạo, không còn thọ thân nữa để phải an táng trong đất. Cám ơn phụ vương của ngươi, cảm phiền Thái Tử.
Thái Tử im lặng trở về cung ra mắt Vua cha trình bày rõ sự việc. Nhà Vua kinh ngạc, rơi lệ tiếc thương, rồi ra lệnh cho dân chúng trong nước hãy đến chỗ Phật để thọ giáo pháp giác ngộ.
Vua lại sai người ấn định giờ giấc để đến chỗ Đức Phật. Vua cùng với mười bốn vạn người tề tựu đông đủ bên ngoài chỗ Đức Phật.
Nhà Vua thưa với Tôn Giả A Nan: Tôi cùng với mười bốn vạn dân muốn đến xin thọ giới của Phật. Tôn Giả A Nan hướng về Đức Phật nêu đầy đủ ý của Vua.
Đức Thế Tôn liền bảo: Thật tội nghiệp cho Vua và dân chúng!
Tôn Giả A Nan thưa: Có thể nói với nhà Vua như thế nào?
Đức Phật đáp: Hãy khoan! Hãy để họ lần lượt vào gặp ta. Nhà Vua cùng các Bậc Hiền Giả cao đức trong nước đồng bước tới chỗ Phật. Tất cả đều cung kính đảnh lễ Phật rồi chấp tay mà đứng.
Lúc này nơi phía trước Đức Phật, chẳng có đèn đuốc gì cả. Đức Phật bèn phóng luồng hào quang từ giữa đảnh đầu, chiếu sáng đến hai ngàn dặm. Đức Phật cám ơn nhà Vua và dân chúng của Ngài đã khổ cực đến đây.
Nhà Vua kính lạy Đức Phật và bạch: Đức Thế Tôn có những lời chỉ dạy gì để chúng con phụng hành?
Đức Phật nói: Ta đã bảo sứ giả: Phật đã thuyết giảng Kinh trong bốn mươi chín năm, Quốc Vương và chư vị hiền thiện đều tự chấp hành. Nhà Vua hãy trở về Hoàng Cung. Vào lúc nửa đêm hôm nay ta sẽ nhập Niết Bàn. Vua và trăm quan, dân chúng không nên khóc lóc thương tiếc.
Đức Phật lại bảo nhà Vua: Ta thấy có sanh tất phải có diệt vong, vậy khóc than để làm gì?
Hãy dằn lòng mình xuống, theo đúng pháp, xa điều ác, tự thương thân mình, siêng năng tu điều đức, thân cận người hiền. Việc gì xảy đến hãy suy nghĩ kỹ, đừng nên tàn bạo.
Mạng người khó được, phải thương yêu muôn họ. Kẻ sáng suốt thì quý trọng, kẻ ngu si thì ân xá. Thế gian có nhiều điều tà vạy, hãy tự thương mình, hãy tự làm tốt cho mình.
Nhà Vua và các Bậc Hiền đức đều xin cáo từ.
Nhà Vua ra đi cách chỗ Đức Phật năm dặm thì cho binh lính dừng lại.
Trong nước này có vị cao niên, thọ một trăm hai mươi tuổi, tên Tu Bạt.
Bây giờ đang đêm khuya, ông chợt thức giấc vì thấy hào quang của Phật chiếu sáng cả thành.
Nhà lại không có ai, ông liền đi ra khỏi thành bước nhanh về chỗ Đức Phật, thưa với Tôn Giả A Nan: Vì tôi mới được nghe biết về việc Đức Thế Tôn sắp nhập Niết Bàn, tâm tôi có chỗ nghi ngờ muốn được nêu bày với Đức Thế Tôn.
Tôn Giả A Nan đáp: Đã gần nửa đêm, Phật sắp vào Niết Bàn, chớ nên làm phiền Ngài.
Tu Bạt thưa lại: Vậy tôi không thể được lãnh hội gì chăng?
Tôi nghe nói hàng vô số kiếp mới có một Đức Phật ra đời. Nay tôi đến đây là để thưa hỏi về chỗ còn nghi ngờ mà chỉ có Đức Phật mới giải thích được.
Tôn Giả A Nan bảo: Thôi đi, không nên hỏi nữa.
Đức Phật biết Tu Bạt đang ở bên ngoài muốn thưa hỏi về chỗ nghi ngờ, nên gọi Tôn Giả A Nan: Sao lại không cho Tu Bạt vào để nêu bày về chỗ còn nghi ngờ ấy?
Tôn Giả A Nan thưa: Con thấy đã gần nửa đêm, Phật sắp diệt độ, con sợ ông ta vào chỉ làm phiền cho Phật. Nay Ngài sắp bỏ Dục Giới ba cõi để nhập vào cõi vô vi.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Tịch điều âm Sở Vấn Kinh Như Lai Sở Thuyết Thanh Tịnh điều Phục - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Tùy Cầu Tức đắc đại Tự Tại đà La Ni Thần Chú - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm Tứ Thánh ðế
Phật Thuyết Kinh Bồ Tát Tam Muội Niệm Phật - Phẩm Ba - Thần Thông - Tập Một
Phật Thuyết Kinh Diệu Pháp Liên Hoa - Phẩm Mười Một - Phẩm Hiện Bảo Tháp
Phật Thuyết Kinh Bảo Lăng Già A Bạt đa La - Phẩm Hai - Phẩm Nhất Thiết Phật Ngữ Tâm - Phần Tám
Phật Thuyết Kinh Thỉnh Quán Thế âm Bồ Tát Tiêu Phục độc Hại đà La Ni Chú - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - Kinh Chánh Tri Kiến - Phần Năm - Già Và Chết