Phật Thuyết Kinh Quán Phật Tam Muội Hải - Phẩm Bảy - Quán Mã Vương Tàng - Tập Hai
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Phật Đà Bạt Đà La, Đời Đông Tấn
PHẬT THUYẾT KINH
QUÁN PHẬT TAM MUỘI HẢI
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Phật Đà Bạt Đà La, Đời Đông Tấn
PHẨM BẢY
QUÁN MÃ VƯƠNG TÀNG
TẬP HAI
Các vị hóa Phật khác miệng đồng lời, chê trách tội lỗi ác dục của các dâm nữ mà nói kệ rằng:
Nếu có các nam tử
Tuổi mười sáu, mười lăm
Cường tráng nhiều sức lực
Nhiều như cát sông Hằng
Đem cung cấp dâm nữ
Giây lát chẳng thỏa lòng.
Các cô gái nghe lời này xong, lòng vô cùng xấu hổ, áo não, ngã lăn ra đất, giơ tay vỗ đầu mà nói rằng: Than ôi! Vì ái dục mới khiến cho các Đức Phật nói lên việc thế này! Chúng ta mang tâm ác, đắm nhiễm ái dục nhơ uế, chẳng biết là khổ nạn mới khiến cho các Đức Phật nghe sự tệ ác như thế này, giống như lửa mạnh thiêu đốt chúng ta.
Khi nói lời đó, họ thấy trong hư không, tất cả các vị Hóa Phật vì tất cả các dâm nữ nói về phép quán Bất tịnh. Đó là chín tưởng, mười tưởng, ba mươi tưởng và phép quán hơi thở. Các cô gái nghe nói pháp quán Bất tịnh thì ưa thích pháp, ưa thiền định, chẳng muốn ái dục nữa.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn thu ánh sáng nơi thân lại, ngồi ngay ngắn trên giường vàng. Đại chúng vân tập trở lại chỗ Đức Phật.
Vua Ba Tư Nặc bạch rằng: Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai ra đời đem lại nhiều lợi ích mới ở chỗ này hiện ánh sáng lớn, huống là vô lượng công đức ở những phần thân khác.
Tất cả Chư Thiên ở trong hư không, cũng ngợi khen trăm ngàn phạm hạnh của Đức Như Lai. Phạm hạnh Như Lai mới được như thế này, mã âm tàng thù thắng lặn mất không xứ sở, hiển bày ra hoa vàng với vô số vị Hóa Phật. Đó là phước báo công đức cao vời của việc trì giới.
Những cô gái nghe lời nói này rồi, bốn ngàn cô gái phát tâm Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, hai ngàn người xa trần lìa cấu được pháp nhãn thanh tịnh, hai ngàn người vào đời vị lai qua mười hai kiếp lần lượt sẽ được đạo Bích Chi Phật.
Ông Trưởng Giả Như Lư Đạt thấy Đức Phật thị hiện hóa độ những cô gái ác ma, khen rằng: Hay thay! Hay thay! Đức Như Lai, xưa phá quân Ma Ba Tuần, nay hóa độ những cô gái, cùng với việc xưa không khác.
Khi tướng này hiện thì vô lượng Chư Thiên phát tâm Bồ Đề. Những tướng sĩ mà Vua Ba Tư Nặc đem theo, có năm trăm người cầu Phật xuất gia thì râu tóc tự rụng, áo đang mặc trên thân biến thành áo Ca Sa, ngay tức thời được đạo A La Hán. Lúc đó, đại chúng thấy được mã âm tàng, lòng hoan hỷ, trừ được tội sinh tử năm mươi ức kiếp, họ đảnh lễ Đức Phật, lui ra.
Đức Phật bảo A Nan rằng: Lúc trước, ta an cư vào mùa hạ, nước Ba La Nại có một lầu bán dâm, trên lầu có cô gái tên là Diệu Ý. Ngày xưa, đối với Phật nàng có nhân duyên sâu nặng. Ta cùng với Nan Đà và ông đi đến nhà dâm nữ này, ngày ngày khất thực. Cô gái này đối với ta chẳng từng cung kính mà đối với Nan Đà lại sinh tâm ái nhiễm.
Đã qua bảy ngày, lòng cô gái nghĩ rằng: Sa Môn Cù Đàm nếu có thể sai Nan Đà hay A Nan đến thì ta nguyện rằng, ta sẽ đem đủ thứ cúng dường cho Sa Môn.
Đức Phật bảo A Nan và Nan đà rằng: Các ông từ ngày hôm nay chớ đi đến thôn đó nữa!
Đức Thế Tôn một mình cầm bát mà đi. Đức Thế Tôn đến chỗ lầu có người con gái, từ một ngày đến ba ngày phóng ra ánh sáng màu vàng giáo hóa những Trời, người, nhưng cô gái này chẳng giác ngộ. Ngày hôm sau, Đức Thế Tôn lại đem theo A Nan và Nan đà, đi đến dưới lầu. Dâm nữ ái kính hai vị Tỳ Kheo Nên từ xa đem mọi thứ hoa tung xuống Đức Phật và hai vị Tỳ Kheo.
Tôn Giả A Nan bảo rằng: Ngươi nên đảnh lễ Đức Phật.
Cô gái yêu kính A Nan nên liền đảnh lễ. Bấy giờ, Đức Thế Tôn hóa ra ba thiếu niên tuổi đều mười lăm, diện mạo tuấn tú hơn tất cả mọi người ở thế gian.
Người con gái này thấy rồi, thân tâm hoan hỷ, vì những hóa niên thiếu, năm vóc gieo xuống đất, kính lễ các thiếu niên mà bạch rằng: Thưa Trượng Phu! Nay nhà này của tôi như Cõi Trời công đức, phước lực tự tại, các vật báu trang nghiêm. Tôi nay đem thân này cùng với nô tỳ dâng lên Trượng Phu có thể đủ nâng khăn sửa túi cho chàng. Nếu chàng có thể đoái hoài thu nạp theo ý nguyện của tôi thì tất cả tôi đều cung cấp cho chàng không gì luyến tiếc.
Nói lời đó rồi, chưa kịp hết bữa ăn, người con gái đã đến gần thưa rằng: Thưa Trượng Phu! Nguyện xin thỏa ý của tôi!
Hóa nhân đồng ý, theo sở dục của mình, cô gái đã cận kề rồi, một ngày một đêm lòng chẳng chán mệt.
Khi đến hai ngày, tâm ái dứt dần, đến ngày thứ ba thì người con gái bạch rằng: Trượng Phu nên dậy ăn uống!
Hóa nhân liền dậy nhưng quấn quít chẳng thôi.
Người con gái sinh chán chường hối tiếc nói rằng: Người Trượng Phu khác thường mới như vậy!
Hóa nhân bảo rằng: Phép đời trước của ta, phàm cùng con gái thông giao phải qua mười hai ngày mới ngưng nghỉ!
Người con gái nghe lời nói này như người mắc nghẹn, nhả ra chẳng được, nuốt vào chẳng xong, thân thể đau khổ như bị chày giã. Đến bốn ngày thì như bị xe nghiến, đến ngày thứ năm thì như hòn sắt vào thân thể, sang ngày thứ sáu thì mọi chi tiết đều đau như tên bắn vào tim.
Cô gái nghĩ rằng: Ta nghe người ta nói, con Vua Tịnh Phạn ở thành Ca Tỳ La Vệ, thân màu vàng tía với ba mươi hai tướng tốt, thương xót kẻ mù tối, cứu tế người khổ sở, luôn ở thành này, thường làm phước khánh, phóng ra ánh sáng màu vàng, cứu giúp tất cả mọi người. Hôm nay tại sao Ngài chẳng đến cứu ta.
Nghĩ thế rồi, nàng áo não tự trách rằng: Ta từ ngày hôm nay cho đến trọn đời, nhất định chẳng tham sắc dục nữa! Ta thà cùng với cọp, sói, Sư Tử, ác thú ở chung một hang chẳng tham sắc dục, chịu sự khổ não này. Nói lời đó xong, nàng trở dậy ăn uống, đi, ngồi chung đụng mà không thể đòi hỏi gì được nữa.
Hóa nhân cũng nổi giận la lên rằng: Này ma nữ tệ ác! Ngươi đã phế bỏ sự nghiệp của ta! Ta nay chung với ngươi giao hợp thân thể một chỗ, chẳng bằng như chết sớm!
Nếu Cha Mẹ, bà con đến tìm thì ta biết trốn vào đâu?
Ta thà chết đi, chẳng cam chịu nhục!
Cô gái nói: Này đồ tệ ác! Ta chẳng cần! Ngươi muốn chết thì tùy ý. Khi ấy, hóa nhân lấy dao đâm vào cổ, máu chảy lênh láng bôi bẩn thân thể cô gái, lăn lộn dưới đất. Cô gái chẳng thể tự kiềm chế, cũng chẳng tránh khỏi.
Thây chết qua hai ngày, xanh sình thối đen, ba ngày thì trương phình lên, bốn ngày thì tan rữa ra với nước đại, tiểu tiện và các ác trùng, vung vãi những máu, mủ… trây trét giàn giụa thân cô gái.
Cô gái rất chán ghét mà chẳng được thoát khỏi. Đến ngày thứ năm thì da thịt rã dần, đến ngày thứ sáu thì thịt đều rơi ra hết, đến ngày thứ bảy thì chỉ có bộ xương thối mà như keo như sơn dán chặt vào thân cô gái.
Cô gái phát thề nguyền rằng: Nếu các Thiên Thần cùng với Tiên Nhân, con Vua Tịnh Phạn, có thể miễn khổ cho tôi thì tôi đem tất cả trân bảo của nhà này để dâng cúng hết!
Khi cô gái khởi ý niệm đó thì Đức Phật đem Tôn Giả A Nan và Nan đà đi theo. Ở trước có Đế Thích bưng lò hương báu, đốt hương thơm vô giá. Ở sau có Phạm Vương nâng lọng báu lớn. Vô lượng Chư Thiên tấu lên kỹ nhạc Cõi Trời. Đức Phật phóng ra ánh sáng chiếu soi Trời đất. Tất cả đại chúng đều thấy Đức Như Lai đi đến lầu của người con gái này.
Người con gái thấy Đức Phật, lòng rất xấu hổ, không chỗ che giấu bộ xương, nàng lấy những miếng vải trắng và mọi thứ hương thơm nhiều không lường, gói bọc bộ xương thối, nhưng mùi thối vẫn như cũ, chẳng thể che giấu. Người con gái thấy Đức Thế Tôn, nàng đảnh lễ. Do xấu hổ nên thân ánh lên trên xương, xương thối bỗng nhiên ở trên lưng người con gái.
Người con gái vô cùng xấu hổ, rơi nước mắt mà nói rằng: Đức Như Lai công đức từ bi không lường! Nếu có thể giúp con lìa khỏi sự khổ này thì con nguyện làm đệ tử, lòng nhất định chẳng thoái lui!
Do thần lực của Đức Phật nên bộ xương thối biến mất.
Người con gái vô cùng vui mừng, đảnh lễ Đức Phật mà bạch rằng: Bạch Thế Tôn! Hôm nay, con đem tất cả đồ trân quý cúng dường Đức Phật!
Đức Phật vì người con gái chú nguyện bằng Phạm âm lưu loát. Cô gái nghe lời chú nguyện, lòng rất vui mừng, tức thời được đạo Tu Đà Hoàn. Năm trăm người hầu nữ nghe âm thanh của Đức Phật đều phát tâm cầu đạo Vô Thượng Bồ Đề. Vô lượng Phạm chúng thấy thần biến của Đức Phật liền đạt được pháp Nhẫn vô sinh. Những Thiên Tử của Đế Thích dẫn theo thì có người phát tâm Bồ Đề, có người được quả A Na Hàm.
Đức Phật bảo Tôn Giả A Nan rằng: Trước đây, khi ta mới thành đạo ở bên dòng sông Hy Liên cạnh thành Già Gia, có năm người Ni Kiền. Người Ni Kiền thứ nhất tên là Tát Xà Đa với năm trăm đồ chúng. Bốn người khác đều có hai trăm năm mươi đệ tử. Các người Ni Kiền đều tự xưng là đắc đạo. Họ đến chỗ của ta, dùng nam căn quấn quanh thân bảy vòng
Đến chỗ của ta, họ trải cỏ mà ngồi rồi nói rằng: Này ông Cù Đàm! Ta vô dục nên được thành tựu tướng Phạm hạnh, nam căn của ta mới có thể như thế này, như Trời Tự tại. Ta có thần thông hơn hẳn Sa Môn trăm ngàn vạn lần.
Sa Môn làm một, ta làm hai! Tức thời ở trong đất, hóa làm một cây lớn, rồi dùng thân căn của mình quấn quanh cây đến bảy vòng, khiến cho cây mây mù như hơi khí của Vua Rồng.
Rồi hắn giơ tay lớn tiếng kêu lên rằng: Này ông Cù Đàm! Việc tướng Phạm hạnh của ta chứng nghiệm như thế này! Ông tự xưng là nam tử, nói là đại trượng phu thì lấy gì làm chứng đây?
Bấy giờ, Đức Thế Tôn hóa làm cái cùm báu, hai đầu cùm báu có mười bốn hạt ngọc. Mỗi hạt ngọc sáng có một ngàn ánh sáng. Mỗi ánh sáng hóa thành hóa Phật tạo ra mười tám phép biến hóa đứng giữa hư không. Đức Thế Tôn hiện hóa, đứng lộn ngược trong hư không, chân ở trên cùm. Hai chân Đức Phật hiện ra một ngàn hoa sen.
Mỗi hoa sen có vạn ức ánh sáng. Trong mỗi ánh sáng có trăm ức đài báu. Trong mỗi đài báu có vô số vị Hóa Phật. Mỗi một vị hóa Phật đều thu một chân giống như ống lưu ly khiến cho chân biến mất. Tất cả các vị Hóa Phật và đức Thích Ca Văn đều treo một chân, đứng lộn ngược trong hư không.
Chỉ có các Ni Kiền là thấy Đức Phật đứng lộn ngược, còn vô lượng Trời, Rồng, tám bộ quỷ thần thì thấy Đức Phật Thế Tôn an tọa nơi giảng đường, diễn bày đại pháp, đó là pháp vô tướng, vô ngã…
Ở trong hư không có tiếng bảo các Ni Kiền rằng: Đức Phật đã làm một, ngươi hãy làm hai đi! Các Ni Kiền liền tự ném mình vọt lên, bám lấy cành cây, ôm cây mà đứng. Dù cho dùng hết pháp thuật Ni Kiền, họ chẳng thể đứng lộn ngược.
Thần cây hiện thân, dùng tay tát tai chúng và mắng rằng: Này mấy người điên! Các người loài trùng nhỏ mà dám cùng với Vua thú Sư Tử đánh nhau.
Ngươi dám kêu lớn, nếu Phật làm một, ta sẽ làm hai, Đức Phật nay đã trụ ở đại thần thông lực, sao ngươi chẳng làm được gì cả?
Thần cây mắng rồi, thần đất cứng chắc liền từ dưới đất hiện ra đứng giữa hư không, dùng khóa sắt lớn khóa chân Ni Kiền treo ngược trong hư không, có năm quỷ Dạ Xoa dùng gậy đánh đập. Ni Kiền đau quá tự kéo rơi xuống đất. Trong thời gian chưa đến đất, có một Ni Kiền xưng lên Nam Mô Phật, Đức Thế Tôn đưa tay tiếp lấy Ni Kiền, khiến cho thân hắn chẳng đau đớn.
Các Ni Kiền đã đến đất rồi thì lòng ganh ghét chẳng thôi nên nói với thần đất rằng: Ông không lòng từ, thiên vị ông Cù Đàm. Ông phạm tội đời trước nên chịu thân Dạ Xoa ở dưới đất này. Ngày nay lại không từ ái đều khắp, chỉ vì ông Cù Đàm mà làm khốn khổ chúng tôi!
Thần sông Hằng bay đến trụ giữa hư không, tay cầm đá lớn bảo rằng: Này Ni Kiền! Ngươi như người si dại, ăn uống phân trâu, tro đá bôi đầu khiến cho tóc rụng rơi, trần truồng không xấu hổ, giống như lừa, ngựa, cũng như con Rồng nghèo khốn chẳng thể thấm nhuần lợi ích gì.
Đức Như Lai là mặt trời Phật chiếu soi khắp tất cả, ngươi hôm nay sao còn đem tấm thân đen tối mà tranh sáng cùng vầng Mặt Trời?
Khi ấy, thần sông nói lời đó rồi, khuyến thỉnh Đức Thế Tôn thu phục các Ni Kiền.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các Ni Kiền rằng: Các ngươi chẳng biết nam căn của Như Lai.
Nếu ai muốn thấy thì tùy ý quan sát đi! Như Lai nhiều kiếp tu hành phạm hạnh, lúc tại gia không có tưởng tà dục, lòng chẳng nhiễm lụy nên được phước báo này, giống như con ngựa báu ẩn hiện không thường. Nay ta vì các ngươi sẽ hiện một phần nhỏ của nam căn.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn từ trên hư không xuống, liền hóa ra bốn dòng nước ở trên mặt đất, giống như bốn biển lớn. Trong bốn biển có núi Tu Di, Đức Phật ở dưới núi, thân nằm ngửa ngay ngắn, phóng ra ánh sáng màu vàng. Ánh sáng ấy rực rỡ chói mắt Chư Thiên, rồi từ từ hiện ra mã âm tàng quấn quanh núi bảy vòng, như hoa sen vàng từng hoa từng hoa tiếp theo nhau lên đến cõi Phạm Thế.
Từ thân Đức Phật hiện ra một ức vô số hoa sen bằng nhiều châu báu, giống như lá cờ hoa che phủ mã âm tàng. Cờ hoa sen này có mười ức tầng. Mỗi tầng có trăm ngàn vô lượng vị Hóa Phật. Mỗi vị Hóa Phật có trăm ức Bồ Tát và vô số Tỳ Kheo làm thị giả. Các vị Hóa Phật phóng ra ánh sáng soi chiếu các cõi khắp mười phương.
Các Ni Kiền thấy rồi, rất kinh sợ, lòng khuất phục, nói rằng: Tướng phạm hạnh của Đức Phật đến như thế này thì chẳng thể nghĩ bàn! Hình dáng chẳng xấu xí giống như hoa sen.
Con xin đảnh lễ biển công Đức Phật! Trí Phật vô biên chẳng thể cùng tận! Xin Đức Phật nhận sự sám hối của con, cứu giúp chúng con! Nói lời nói này xong thì năm trăm Ni Kiền chắp tay, vòng tay, quỳ gối sát đất, cầu Đức Phật xin được xuất gia.
Đức Phật dạy rằng: Thiện lai Tỳ Kheo! Đức Phật bảo Tôn Giả Ca Diếp chuẩn bị y phục cho họ.
Ca Diếp lúc ấy, đến chỗ Tiên Nhân bảo các vị Đại Tiên rằng: Ngày nay, Đức Thế Tôn hàng phục các Ni Kiền, xin Tiên sĩ bố thí cho một ít quần áo!
Các Tiên Nhân chọn lấy vỏ cây tốt, lá cây Đa la, cắt may làm áo. Thầy của các Tiên Nhân tên là Quang Mục chắp tay, vòng tay bảo các đệ tử rằng: Đức Phật phước đức vô lượng, thệ nguyện rộng lớn khắp cùng, mới giáo hóa những người tà kiến này! Ta phải chuẩn bị quần áo cung cấp cho những kẻ trần truồng. Họ cũng kính ngồi Phật bảo, đáng được thoát khỏi các khổ.
Nói lời này xong, họ theo sau Tôn Giả Ca Diếp đến chỗ Đức Thế Tôn. Năm trăm Tiên Nhân thấy đài hoa sen từ thân Đức Phật hiện ra như các hoa sen vây quanh núi Tu Di, lên đến cõi Phạm Thế. Những Tiên Nhân thấy việc này rồi, vui mừng chắp tay kính lễ Đức Thế Tôn.
Quan sát kỹ Đức Thế Tôn, mắt chẳng tạm rời, thấy ánh sáng tướng Bạch hào vùng chân mày của Đức Phật uyển chuyển xoáy về bên phải và thấy tất cả mọi tướng của thân Đức Phật, họ suy nghĩ: Tướng này tốt, nhất định từ đời trước Ngài không lệ thuộc, không chấp thủ, không ngã, không tạo tác, không tâm, không thức, không người, không vật, không cho, không nhận… Đàn Na Ba la mật thanh tịnh mà sinh ra. Tướng ấy cũng do đại trí tuệ bát nhã Ba la mật Nhất thiết bình đẳng vô tướng sinh ra.
Khi tư duy nghĩa đó xong, chư vị liền chứng được pháp nhẫn vô sinh, năm trăm Ni Kiền mặc Tăng Già Lê đảnh lễ Phật, khoảnh khắc chưa ngẩng đầu lên, tức thời đã được đạo A La Hán với ba minh, sáu thông đủ tám giải thoát. Mỗi Ni Kiền thề nguyền sẽ độ năm trăm Ni Kiền. Khi tướng này hiện, vô lượng chúng Trời, Rồng, Dạ Xoa thấy quả báo phạm hạnh thanh tịnh của Đức Phật, thân tâm hoan hỷ phát tâm Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.
Đức Phật bảo A Nan rằng: Sau khi Phật diệt độ, chúng Trời, Rồng, chúng Dạ Xoa, chúng Sa Môn, chúng Bà La Môn… có hỏi Đức Thế Tôn thuở đời quá khứ, thanh tịnh vô dục, tu những phạm hạnh được quả báo gì?
Thì ông phải đáp rằng, Đức Phật có tướng Mã vương tàng, cùng với thân bằng phẳng, bảy chỗ đầy đặn như đồ kim cương, trong ngoài đều thanh tịnh.
Vì hóa độ chúng sinh nên xuất hiện tướng này: Ánh sáng hóa Phật, mây hoa sen vi diệu… số ấy không lường. Thân như thế này được sinh ra từ vô số đời vô nhiễm yên ổn thọ trì hoàn hảo giới, tuệ, Thi la Ba la mật.
Đức Phật bảo A Nan: Sau khi Phật diệt độ, những đệ tử của Phật, nếu muốn quán tướng mã âm tàng của Như Lai, phải quán tưởng như thế. Người quán như vậy gọi là chánh quán, nếu quán khác đi gọi là tà quán.
Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của Phật, nếu có người giữ chánh niệm tư duy tướng phạm hạnh của Phật, ánh sáng của hóa Phật thì thường ở trong mơ, được thấy các Đức Phật mười phương. Người này đời đời luôn tu phạm hạnh, tiêu trừ tội sinh tử trong hai mươi vạn kiếp.
Khi Phật nói tướng này, tám ngàn Dạ Xoa trong chúng Dạ Xoa, thân tâm hoan hỷ, khen ngợi đức hạnh không lường của Đức Như Lai và liền phát tâm Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Ma Ha Bát Nhã Sao - Phẩm Ba - Phẩm Công đức - Tập Hai
Phật Thuyết Kinh Con đường Tu Hành - Phẩm Hai Mươi Tám - Tu Hành Của Ba Bậc đệ Tử
Phật Thuyết Kinh Bát đại Linh Tháp Danh Hiệu
Phật Thuyết Kinh Văn Thù Sư Lợi Nói Về Cảnh Giới Phật Không Thể Nghĩ Bàn - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Trung A Hàm - Phẩm Bảy - Phẩm Trường Thọ Vương - Kinh Chi Ly Di Lê
Phật Thuyết Kinh Trung Bổn Khởi - Phẩm Sáu - Phẩm Trở Về Bổn Quốc