Phật Thuyết Kinh Quán Phật Tam Muội Hải - Phẩm Bốn - Quán Phật Tâm - Tập Ba

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Phật Đà Bạt Đà La, Đời Đông Tấn

PHẬT THUYẾT KINH

QUÁN PHẬT TAM MUỘI HẢI

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Phật Đà Bạt Đà La, Đời Đông Tấn  

PHẨM BỐN

QUÁN PHẬT TÂM  

TẬP BA  

Đức Phật bảo A Nan rằng: Sao gọi là địa ngục năm trăm ức rừng gai nhọn?

Địa Ngục rừng gai nhọn rộng tám ngàn do tuần, bên trong chứa đầy gai nhọn bằng sắt. Đầu mỗi gai nhọn có mười hai lưỡi kiếm. Trên cây lại có cái kìm lớn bằng sắt nóng. Thế gian có chúng sinh ngu si, nói lời ác, nói lưỡi đôi chiều, nói thêu dệt, nói bất nghĩa, đùa cợt không kiềm chế, lời nói dối gạt, thị phi, nói lỗi của Kinh Điển, hủy báng bậc thầy luận bàn nghĩa lý.

Như tội báo này, lúc sắp qua đời, tội nhân thấy cổ họng nóng, lưỡi khô, liền nghĩ rằng: Nếu được một mũi nhọn bén đâm vào cổ cho chảy máu, khiến cho các mạch máu rót nước mát vào thì chẳng dễ chịu hơn sao?

Khi khởi ý nghĩ này, ngục tốt La Sát hóa làm cha mẹ, tay cầm ngọc nguyệt châu, đầu viên ngọc sinh ra mũi nhọn, đem cho vào miệng như nước sắp rót.

Tội nhân vui mừng nghĩ rằng: Điều ta mong muốn đã được kết quả. Nghĩ vậy rồi, tắt thở qua đời, nhanh như ánh chớp, người ấy sinh vào rừng gai nhọn. Sau khi người ấy sinh ra, ngục tốt La Sát, tay cầm kìm sắt kéo bật lưỡi tội nhân ra, rồi tám mươi con trâu sắt kéo cày sắt lớn cày phá lưỡi của tội nhân ấy. Các cây của rừng gai nhọn, có gió thổi lại, đánh đập thân thể người ấy. Một ngày một đêm, người ấy sáu trăm lần sinh ra, sáu trăm lần chết đi.

Qua khỏi kiếp nạn đó rồi, về sau được sinh trong loài người, môi hở, mặt nhăn, tiếng nói lắp bắp. Như tội nhân này, thân thể sinh ra bị các thương tích máu mủ tràn lan, trải qua năm trăm đời, người nhìn thấy rất gớm ghiếc. Qua hết những việc đó rồi, về sau, có nói ra lời gì, mọi người đều chẳng tin nhận, nhưng nhờ gặp được bậc thiện tri thức phát tâm bồ đề.

Đức Phật bảo A Nan rằng: Sao gọi là địa ngục năm trăm ức trụ đồng?

Địa Ngục trụ đồng là nơi có một trụ đồng giống như ngọn núi lớn, cao sáu trăm do tuần, bên dưới có lửa mạnh, trên lửa có giường sắt, bên trên giường có bánh xe dao. Ở chỗ các bánh xe dao có trùng mỏ sắt và quạ sắt ở bên cạnh.

Thế gian tự có chúng sinh ngu si tham lam mê hoặc chồng chất, ái nhiễm, chẳng thanh tịnh, phạm giới tà dâm, chẳng phải nơi, chẳng phải lúc, tạo nghiệp bất tịnh. Giả sử có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Bà La Môn… những người phạm hạnh, nếu chẳng phải lúc, chẳng phải nơi phạm pháp bất tịnh… cho đến tất cả những người phạm tà hạnh, tạo nghiệp bất tịnh.

Những tội nhân này, khi sắp qua đời, toàn thân cựa quậy rung động mạnh mẽ chẳng yên giống như cung nỏ, chẳng tự kiềm chế được, liền nghĩ rằng: Nếu được một cây trụ bằng đồng hay sắt cứng chắc to lớn để trói thân thể này khiến cho ta không còn lay động nữa.

Ngục tốt La Sát ngay lúc đó liền đến, hóa làm người để sai bảo, tay cầm gậy sắt, đi đến chỗ tội nhân thưa rằng: Hôm nay, thân Ngài mạnh mẽ, còn các vật khác đều yếu mềm.

Ngài có thể nắm lấy cây gậy này! Lòng tội nhân rất vui mừng, liền tắt thở qua đời. Như khoảnh khắc ngắn của cây gậy quay, người ấy sinh vào đầu trụ đồng, lửa mạnh cháy hừng hực thiêu đốt thân người ấy. Tội nhân sợ hãi nhìn xuống thấy trên giường sắt có người con gái đoan chánh. Nếu người con gái đó thấy người nam đàng hoàng thì tâm phát sinh ái nhiễm.

Tội nhân từ trên trụ đồng muốn gieo xuống đất thì bị trụ đồng đâm xuyên thân, lưới sắt quấn quanh cổ, các trùng mỏ sắt rỉa ăn thân thể người ấy. Rơi xuống trên giường sắt, cả nam lẫn nữ đều cùng lúc sáu căn bốc lửa. Có con trùng sắt theo mắt mà vào, rồi từ nam căn và nữ căn mà ra.

Nếu người có giới hạnh không thanh tịnh thì riêng có chín ức những bọn trùng nhỏ như trùng Tiếu thư một thứ nhọt lở đầu ngón chân, ngón tay. , có mười hai mỏ, đầu mỏ phát ra lửa, rỉa ăn thân thể người ấy. Quả báo tà dâm này, một ngày một đêm chín trăm ức lần sinh, chín trăm ức lần chết.

Chịu đựng hết quả báo mới được ra khỏi, sinh vào trong loài tu hú, bồ câu. Thọ thân tu hú, bồ câu trải qua năm trăm đời, lại sinh trong loài Rồng trải qua năm trăm đời. Về sau, tội nhân sinh trong loài người, bị không căn, hai căn và căn chẳng định, làm thân bán nam bán nữ trải qua năm trăm đời.

Giả sử người ấy được làm người, vợ chẳng trinh tiết tốt lành, con chẳng hiếu thảo, nô tỳ chẳng thuận thảo. Sau khi qua khỏi những việc đó rồi, thì người ấy gặp được bậc thiện tri thức, phát tâm bồ đề.

Đức Phật bảo A Nan rằng: Sao gọi là địa ngục năm trăm ức máy sắt?

Địa Ngục máy sắt là nơi có một cái giường sắt, ngang dọc bằng nhau bốn trăm do tuần, bên trên đặt những cái bệ, trong bệ đều có hàng vạn ức nỏ sắt, đầu nỏ có hàng trăm ức mũi nhọn. Thế gian có chúng sinh ngu si, vì tham dục nên bất hiếu với cha mẹ, chẳng kính Sư Trưởng, chẳng vâng thuận lời dạy tốt, giết hại chúng sinh, ăn theo những người gian dối… tội báo của người này, khi sắp qua đời, thân thể rúng động, sáu lỗ nơi thân, nước tự chảy ra.

Tội nhân này, tự thấy giường của mình như gấm Đâu La, liền nghĩ rằng: Khi nào được một chỗ bền chắc mát mẻ để an thân nằm ngủ thì chẳng thích lắm sao?

Khi họ khởi ý nghĩ đó, ngục tốt La Sát dùng chĩa nâng giường lên đem bày cái giường nệm lớn đến chỗ tội nhân. Tội nhân thấy rồi, lòng rất vui mừng, muốn nằm lên giường nệm thì tắt thở qua đời, sinh lên trên giường sắt, vạn ức cửa bệ sắt từ dưới khởi động, bệ sắt thấp giơ cao lên, vô lượng nỏ sắt đồng thời đều trương lên, tất cả các mũi tên sắt bắn vào tim tội nhân.

Một ngày một đêm sáu mươi ức lần sinh, sáu mươi ức lần chết. Tội nhân chịu hết tội như vậy rồi, sinh vào trong loài súc sanh trải qua năm trăm đời, rồi sinh trở lại trong cõi người làm kẻ bần cùng thấp hèn, bị người khác sai khiến, chịu nhiều hình ngục, luôn bị đánh đập. Qua khỏi những việc đó rồi, về sau gặp bậc thiện tri thức, phát tâm bồ đề.

Đức Phật bảo A Nan rằng: Sao gọi là địa ngục lưới sắt?

Địa Ngục lưới sắt là nơi có tám mươi chín lớp lưới sắt. Trong mỗi lớp lưới có trăm ức kim sắt. Mỗi kim sắc mở ra năm bệ cửa. Thế gian có chúng sinh giả dối, tà dâm, dua nịnh, yêu mị mê hoặc người, lòng luôn mê sảng, ngày đêm nghĩ ác, từng sát na, sát na luôn gây tạo các niệm ác.

Tội báo của người này là khi sắp qua đời thân thể ngứa ngáy, liền nghĩ rằng: Nếu được một cái gai, cây kim hay cái lẹm mà đâm con trùng ghẻ thì chẳng thích hơn sao?

Khi họ khởi ý niệm đó, ngục tốt La Sát hóa thành vị thầy thuốc, tay cầm kim báu nói lớn rằng: Ta trị bệnh đây! Tội nhân nghe, lòng rất vui mừng, tắt thở qua đời, sinh vào vùng lưới sắt. Thân tội nhân rơi xuống thì các bệ đều khởi động, vô lượng kim bắn vào lỗ chân lông. Như vậy, cứ lẩn quẩn trong những lưới sắt từng sát na chết, từng sát na sống.

Tội hết, người ấy mới sinh vào chỗ biên địa không có Phật Pháp, cũng chẳng được nghe lời nói hiền thiện ở thế gian, huống gì là lời chánh pháp. Tuy họ sinh trong loài người nhưng chẳng khác ở ba đường ác. Qua khỏi kiếp số đó, mới gặp được bậc thiện tri thức, tuy được nghe pháp nhưng lòng chẳng hiểu rõ.

Đức Phật bảo A Nan rằng: Sao gọi là địa ngục hang sắt?

Địa Ngục Hang Sắt là pháp khổ bậc nhất trong đường ngạ quỷ. Có một núi sắt ngang dọc bằng nhau hai mươi lăm do tuần. Trên núi lại có năm trăm vạn ức hòn sắt nóng lớn. Mỗi hòn sắt tròn vìn đúng mười ba do tuần. Ngọn núi lại có năm ngàn đao kiếm. Lúc đó, hướng Đông của núi kia mở ra, có một lỗ nhỏ như miệng của Ma Dà Đà to như cái đấu, chỉ phát ra khói đen.

Thế gian có chúng sinh ngu si, tham lam, bỏn sẻn trói buộc lòng chắn như Kim cương, chỉ ưa cầu tìm không biết chán đủ, cha mẹ vợ con đều chẳng cấp cho, Sư Trưởng giáo thọ xem như phân nhơ, nô tỳ thân hữu chẳng cho ăn mặc. Người keo kiệt như vậy chẳng nghĩ đến vô thường, tiếc giữ của cải giống như tròng mắt.

Tội báo người này là khi sắp qua đời, các căn bế tắc, cấm khẩu chẳng nói được, trong lòng suy nghĩ rằng: Sau khi ta chết, những người ác đó ăn của cải của ta như nuốt hòn sắt, ở nhà của ta như ở trong nhà tối!

Nghĩ thế rồi, ngục tốt La Sát hóa làm người tham lam giả thâu lấy của cải đem đến chỗ tội nhân, rồi dùng lửa đốt chúng. Lòng tội nhân vui mừng, tắt thở qua đời, sinh lên trên núi lửa, giống như trong hang sắt luyện chung với đồng. Đã vào trong hang, thân thể người ấy bị trùng kiếm, trùng đao rỉa ăn.

Khói xông mắt người ấy làm họ chẳng thấy lửa cháy, sợ hãi kinh hoàng xô chạy khắp đông tây, đầu va vào núi sắt, những hòn sắt từ trên rơi xuống nhập vào đỉnh đầu, rồi từ chân mà ra, khoảnh khắc một niệm chết, khoảnh khắc một niệm sống. Tội hết, người ấy mới sinh ra trong loài ngạ quỷ. Thân quỷ ấy cao lớn đến mười do tuần mà cổ họng như cây kim, bụng lớn như núi, kiếm ăn khắp nơi mà chỉ có nước đồng rót vào cổ họng.

Trải qua tám ngàn năm mới được hết khổ, người ấy lại sinh vào loài quỷ ăn đồ khạc nhổ, quỷ ăn mủ, quỷ ăn máu. Tội hết lại sinh làm thần hầm xí heo, chó. Tội hết lại sinh làm người nghèo cùng, thấp hèn, không quần áo, đồ ăn, chỗ ở, sau đó, mới gặp bậc thiện tri thức, phát tâm bồ đề.

Đức Phật bảo A Nan rằng: Sao gọi là địa ngục hòn sắt?

Địa Ngục hòn sắt là nơi rộng tám mươi do tuần, bên trong chứa tám mươi tám ngăn thành sắt.

Trong mỗi ngăn có năm núi đao che phủ bên trên, bên dưới có mười tám con rắn sắt lớn hung dữ. Mỗi con rắn đều lè lưỡi, lưỡi phát ra kiếm sắt. Đầu kiếm có lửa cháy. Thế gian có chúng sinh ngu si hủy báng hạnh bố thí, cho rằng bố thí không có phước báo, khuyên người tàng trữ.

Người ngu si như vậy nói với Quốc Vương, đại thần, Sa Môn, Bà La Môn và tất cả mọi người rằng: Bố thí không có nhân, cũng không quả báo.

Tội nhân này, lúc sắp qua đời, cổ cứng, mạch co lại, xoay chuyển chẳng nói lên lời, chẳng ưa thấy người, chỉ nằm nhìn xuống, trong lòng chỉ nghĩ: Ta chứa của báu, của ấy nếu được ở cùng ta thì vui thích chẳng thể nói.

Ngục tốt La Sát hóa làm vợ người ấy cầm hòn sắt nóng hóa thành đồ quý báu, ở trước người ấy nói rằng: Tôi chết theo Ngài, trước sau có nhau, chẳng hề lìa nhau! Người ấy tắt thở qua đời, sinh vào trong thành sắt, chạy rong khắp nơi, bị con rắn sắt tiết ra độc quấn quanh thân người ấy.

Trên đầu bị lửa cháy, người ấy liền nghĩ: Nguyện xin Trời thương ta tuôn xuống mưa ngọt ngào! Theo ý nghĩ đó, Trời mưa xuống những hòn sắt nóng lớn, chúng đi thẳng vào đỉnh đầu và đi ra dưới chân. Hết tội, người ấy mới được làm người nghèo cùng, cô độc, câm ngọng. Số tuổi thọ của người đó bằng số năm của người ở địa ngục hang sắt nói trên. Về sau người ấy mới gặp bậc thiện tri thức, phát tâm bồ đề.

Đức Phật bảo A Nan rằng: Sao gọi là địa ngục đá nhọn?

Địa Ngục đá nhọn là nơi có hai mươi lăm núi đá. Mỗi núi đá có tám ao băng. Mỗi ao băng có năm con Rồng độc. Thế gian có chúng sinh ngu si, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Sa Di, Sa Di ni, Thức xoa ma ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, chín mươi sáu các Phạm chí, ngoại đạo…, pháp nói là phi pháp, phi pháp nói là pháp. Hoặc họ phạm giới nhẹ để lâu chẳng sám hối, lòng không biết xấu hổ giống như loài khỉ vượn.

Tội báo của người này lúc sắp qua đời, dưới tim khí đầy, bụng căng như trống, ăn uống bị ói mữa, nước uống vào chẳng xuống, họ liền nghĩ rằng: Như được một viên đá nhọn khai thông cổ họng của ta thì chẳng dễ chịu hơn sao?

Khi họ khởi ý niệm đó, ngục tốt La Sát hóa làm vị lương y, giả cầm viên đá nhọn làm viên thuốc lớn, đặt vào trong miệng người ấy, bảo rằng: Ngậm miệng lại!

Người ấy, lòng rất vui mừng, tắt thở qua đời, sinh vào vùng núi đá, vô lượng đá nhọn từ trên lưng mà vào, rồi từ trước ngực mà ra. Ngục tốt lại dùng chĩa sắt đâm vào miệng lấy đá bên trong ra. Một ngày một đêm có đến sáu mươi ức lần chết, sáu mươi ức lần sinh. Đây là sinh báo, từ lúc qua đời này, tội nhân bị đọa vào địa ngục dây đen.

Địa Ngục dây đen là nơi có tám trăm khóa sắt, tám trăm núi sắt, dựng cờ sắt lớn, hai đầu buộc khóa. Ngục tốt La Sát xua đuổi tội nhân, bắt cõng núi sắt, chạy trên dây sắt, chẳng đi được rơi xuống đất thì lọt vào trong vạc nước sôi, La Sát đuổi dậy, khát quá thì uống nước sắt, nuốt lấy đá mà chạy. Một ngày một đêm trải qua nỗi khổ đó đến mười vạn lần.

Tội hết, sinh ra đời làm tôi tớ cho người, gặp bậc thiện tri thức được người ấy nói pháp chân thật, như vải trắng tốt dễ nhuộm lấy màu, thành bậc A La Hán với ba minh, sáu thông, đủ tám giải thoát.

Đức Phật bảo A Nan rằng: Sao gọi là mười tám địa ngục uống nước đồng sôi?

Địa Ngục uống nước đồng sôi là nơi có một ngàn hai trăm thứ xe đồng đủ màu. Trên mỗi xe đồng có sáu ngàn viên đồng. Có chúng sinh tham lam, ganh ghét, tà kiến, ác thuyết, chẳng cung cấp cho cha mẹ, vợ con, quyến thuộc và tất cả.

Lòng luôn tham lam, ganh ghét, thấy kẻ khác được lợi như tên bắn vào tim. Tội nhân như vậy, lúc sắp qua đời hay bị nhiều bệnh, gầy còm, hôn mê nói nhảm, trong miệng tự nói, muốn được trái cây để ăn. Khi nói lời đó thì ngục tốt La Sát hóa xe đồng thành xe chở đầy trái cây, đi đến chỗ tội nhân.

Tội nhân được rồi, lòng rất vui mừng, liền nghĩ rằng: Được những trái ngon này ăn chẳng biết chán, rất hợp với mong muốn của ta, rồi vô cùng vui mừng, tắt thở qua đời. Chưa qua đời bao lâu, tội nhân đã sinh lên trên xe đồng, chẳng lâu liền sinh đến vùng núi đồng, xe đồng cán cổ, ngục tốt La Sát dùng kìm cạy miệng bắt uống nước đồng nấu chảy.

Uống nước đồng rồi mê muội ngã lăn ra đất, la lên rằng: Đói! Đói! đồng thời ngục tốt tách miệng cho mở ra, rồi dùng hòn đồng, sắt đặt vào trong miệng người ấy, nuốt luôn mười tám hòn, từng đốt từng đốt xương trên thân lửa bốc cháy. Tội nhân xô chạy khắp đông tây trải qua một ngày mới qua đời.

Ngục tốt nói lớn rằng: Thân đời trước của ngươi dua nịnh, tà kiến, tham lam, ganh ghét. Do nhân duyên đó nên phải chịu quả báo nuốt hòn sắt nóng. Hoặc đã từng xuất gia mà phạm giới nhẹ để lâu chẳng hối lỗi, luống ăn của tín thí. Do nhân duyên này nên phải ăn những hòn sắt. Tội báo của người này là trải qua hàng ức ngàn vạn năm chẳng biết đến nước uống và lúa gạo.

Chịu tội xong rồi, sinh lại trong cõi người, người ấy suốt trong năm trăm đời nói năng lắp bắp, chẳng tự biện luận rõ ràng. Do tập nhiễm đời trước nên ăn uống đời sau họ phải ăn hòn than và ăn đất cục. Từ đó về sau, họ gặp bậc thiện tri thức, phát tâm bồ đề.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần