Phật Thuyết Kinh Quán Phật Tam Muội Hải - Phẩm Bốn - Quán Phật Tâm - Tập Một
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Phật Đà Bạt Đà La, Đời Đông Tấn
PHẬT THUYẾT KINH
QUÁN PHẬT TAM MUỘI HẢI
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Phật Đà Bạt Đà La, Đời Đông Tấn
PHẨM BỐN
QUÁN PHẬT TÂM
TẬP MỘT
Bấy giờ, tim Phật như đóa hoa sen hồng. Cánh hoa sen có tám muôn bốn ngàn ánh sáng màu trắng. Ánh sáng ấy soi khắp chúng sinh trong năm đường. Khi ánh sáng này phát ra, chúng sinh đang chịu khổ đều xuất hiện. Đó là khổ của địa ngục A tỳ.
Mười tám địa ngục nhỏ, mười tám địa ngục lạnh, mười tám địa ngục tối đen, mười tám địa ngục đốt nóng nhỏ, mười tám địa ngục bánh xe đao, mười tám địa ngục bánh xe kiếm, mười tám địa ngục xe lửa, mười tám địa ngục nước phân sôi.
Mười tám địa ngục vạc nước sôi, mười tám địa ngục sông tro, năm trăm ức địa ngục rừng kiếm, năm trăm ức địa ngục rừng gai, năm trăm ức địa ngục trụ đồng, năm trăm ức địa ngục mây sắt, năm trăm ức địa ngục lưới sắt, mười tám địa ngục hang sắt, mười tám địa ngục hòn sắt, mười tám địa ngục đá nhọn, mười tám địa ngục uống nước đồng… rất nhiều những địa ngục như vậy.
Đức Phật bảo rằng: Này A Nan! Sao gọi là địa ngục A tỳ?
A là không, Tỳ là ngăn, A là không, Tỳ là cứu. A là không gián đoạn, Tỳ là không động. A là rất nóng, Tỳ là rất khổ sở. A là chẳng an ổn, Tỳ là chẳng trụ, chẳng an ổn chẳng trụ gọi là địa ngục A tỳ. A là lửa lớn, Tỳ là nóng dữ. Lửa dữ nhập vào tim gọi là địa ngục A tỳ.
Đức Phật bảo: Này A Nan! Địa ngục A tỳ dọc ngang đều đúng tám ngàn do tuần với bảy lớp thành sắt, bảy tầng lưới sắt, xuống dưới mười tám ngăn, vây giáp vòng bảy lớp đều là rừng đao. Bên trong bảy lớp thành lại có rừng kiếm. Dưới mười tám ngăn, mỗi ngăn có tám muôn bốn ngàn lớp.
Ở bốn góc của ngăn ấy có bốn con chó đồng lớn, thân dài rộng đến bốn mươi do tuần, mắt như chớp kéo, nanh như cây gươm, hàm răng như núi dao, lưỡi như mũi nhọn bằng sắt, tất cả lông trên thân đều phát ra lửa dữ, tạo ra khói rất hôi thối, vật hôi thối của thế gian không gì có thể ví dụ được.
Có mười tám ngục tốt, đầu là đầu La Sát, miệng là miệng Dạ Xoa, có sáu mươi tư mắt, mắt tung đuổi hòn sắt như chiếc xe mười dặm. Răng nanh chó chìa ra cao bốn do tuần, đầu răng nanh tuôn ra lửa, thiêu đốt xe sắt trước khiến cho bánh xe sắt, mỗi vành bánh xe hóa thành một ức ngọn lửa. Dao bén, mũi nhọn, kiếm, kích… đều từ lửa phát ra.
Lửa tuôn như vậy thiêu đốt thành A tỳ khiến cho thành A tỳ đỏ như nước đồng. Trên đầu ngục tốt có tám đầu trâu. Mỗi đầu trâu có mười tám sừng. Đầu mỗi sừng đều phát ra đám lửa. Đám lửa lại hóa thành mười tám vành bánh xe. Vành bánh xe lửa lại biến thành vòng dao lửa như bánh xe.
Từng vòng, từng vòng tiếp nhau tại vùng lửa rực, đầy trong thành A tỳ. Chó đồng há miệng le lưỡi đụng đất, lưỡi như sắt nhọn. Khi lưỡi lè ra thì hóa thành vô lượng lưỡi, đầy trong thành A tỳ. Bên trong bảy lớp thành có bảy lá cờ bằng sắt. Đầu lá cờ lửa vọt ra như nước sắt sôi trào lên.
Dòng sắt ấy lan đầy thành A tỳ. Bốn cửa của Ngục A tỳ, trên then cửa có tám mươi cái nồi đồng đựng nước đồng sôi trút xuống từ cửa, lan tràn đầy trong thành A tỳ. Mỗi khoảng ngăn có tám vạn bốn ngàn con rắn sắt lớn, phun ra độc, phun ra lửa. Thân của chúng đầy trong thành.
Những con rắn ấy gào rống như sấm Trời động, mưa xuống những hòn sắt lớn đầy thành A tỳ. Những khổ sở ở thành này có đến hàng tám muôn ức ngàn. Những sự khổ nhất trong các sự khổ đều gom lại tại thành này. Có năm trăm ức loài trùng, mỗi trùng có tám vạn bốn ngàn mỏ. Đầu mỏ lửa tuôn ra như mưa xuống đầy thành A tỳ.
Khi những trùng này hạ xuống thì lửa dữ của A tỳ càng cháy lớn thêm. Lửa cháy có ánh sáng đỏ soi sáng đến tám vạn bốn ngàn do tuần, từ địa ngục A tỳ xông lên biển lớn, đốt cháy thêm dưới núi. Giọt nước biển lớn như trục bánh xe trở thành cây sắt lớn nhọn đầy trong thành A tỳ.
Đức Phật bảo rằng: Này A Nan! Nếu có chúng sinh giết cha, hại mẹ, nhục mạ quyến thuộc người tạo những tội đó, sau khi qua đời, có con chó đồng há miệng hóa ra mười tám chiếc xe, hình dạng như xe vàng với lọng báu ở trên. Tất cả lửa cháy hóa thành ngọc nữ.
Tội nhân từ xa nhìn thấy, vui mừng nghĩ: Ta muốn vào trong đó! Ta muốn vào trong đó!
Gió đao thổi đến lạnh quá, nên la thất thanh, nghĩ rằng: Thà được lửa cháy ngồi yên ở trên xe để lửa tự đốt. Khởi ý nghĩ đó rồi, người ấy liền qua đời. Hồn lìa khỏi xác đã thấy ngồi xe vàng, ngắm nhìn ngọc nữ, liền bị họ cầm búa sắt chém chặt thân tội nhân ấy.
Bên dưới thân thì lửa dậy như vòng lửa xoáy, trong khoảng thời gian tráng sĩ co duỗi cánh tay đã rơi thẳng vào địa ngục A tỳ. Tội nhân ấy từ ngăn trên, như bị vòng lửa xoáy, đưa xuống đến mép ngăn cuối, thân đầy khắp trong các ngăn. Con chó đồng sủa lớn, nhai xương hút tủy. Ngục tốt La Sát cầm chĩa sắt lớn đâm vào đầu khiến cho lửa cháy khắp thân thể, tràn đầy thành A tỳ. Lưới sắt mưa dao theo lỗ chân lông nhập vào thân thể tội nhân.
Hóa Diêm La Vương lớn tiếng ra lệnh rằng: Này những kẻ ngục nhân ngu si! Khi ngươi còn ở đời, bất hiếu với cha mẹ, tà kiến, kiêu mạn, vô đạo! Chỗ ngươi sinh ra hôm nay gọi là địa ngục A tỳ.
Ngươi chẳng biết ân, không có hổ thẹn, chịu sự khổ não này có vui không vậy?
Nói lời đó xong liền biến mất.
Bấy giờ, ngục tốt lại đuổi tội nhân từ ngăn dưới lên cho đến ngăn trên, trải qua tám vạn bốn ngàn ngăn. Thân tội nhân này qua đến mép lưới sắt thì phải mất một ngày một đêm nơi ấy mới khắp cùng.
Một ngày một đêm ở địa ngục A tỳ tính theo ngày tháng năm của cõi Diêm Phù Đề này là sáu mươi tiểu kiếp. Tội nhân ngũ nghịch không hổ không thẹn, tạo năm tội đại nghịch. Người phạm năm tội đại nghịch nên khi sắp qua đời, bị mười tám ngọn gió đao như xe lửa sắt cắt phanh thân thể.
Do sức nóng bức bách nên họ nói rằng: Được ở dưới cây lớn mát mẻ, có hoa tươi đẹp dạo chơi thì chẳng vui hay sao?
Khi họ khởi ý niệm này, tám vạn bốn ngàn rừng kiếm dữ của địa ngục A tỳ hóa thành cây báu, hoa trái sum suê, hàng hàng lớp lớp ở trước mặt. Lửa cháy rất nóng hóa thành hoa sen dưới những gốc cây ấy.
Tội nhân nhìn thấy, nói rằng: Sự mong muốn của ta, nay đã được kết quả. Khi nói lời nói đó, nhanh như mưa rào, tội nhân lên ngồi trên hoa sen. Ngồi trong giây lát thì các trùng mỏ sắt từ hoa lửa nổi dậy, xuyên qua xương vào trong tủy, thấu qua tim xuyên vào não, vin theo cây mà lên.
Tất cả rừng kiếm nạo thịt thấu xương, vô lượng rừng đao đang ở trên hạ xuống, xe lửa, lò than… mười tám việc khổ cùng một lúc ập đến. Khi tướng này hiện, tội nhân bị vùi lấp dưới đất, từ ngăn dưới lên, thân như hoa nở đầy khắp ngăn dưới. Từ ngăn dưới nổi lửa cháy dữ dội lên đến ngăn trên.
Đến ngăn trên rồi, thân tội nhân đầy trong đó, vì quá nóng bức khổ não nên họ há miệng, thè lưỡi. Do tội người này nên hàng vạn ức nước đồng, hàng trăm ngàn vòng đao, từ không trung hạ xuống, nhập vào đầu, đi ra ở chân. Tất cả việc khổ ở đây nặng nề hơn trước gấp trăm ngàn vạn lần.
Người nào tạo đủ năm tội nghịch thì chịu tội đầy đủ năm kiếp. Lại có chúng sinh phạm bốn giới trọng, luống ăn của tín thí, bài báng, tà kiến, chẳng biết nhân quả, gián đoạn việc học Bát Nhã, hủy báng Chư Phật mười phương, ăn trộm đồ vật của Tăng, dâm dật vô đạo, cưỡng bức các Tỳ Kheo Ni giữ giới thanh tịnh, chị, em thân thích mà chẳng biết hổ thẹn, hủy nhục người thân, tạo mọi việc ác.
Tội báo người này là khi sắp qua đời thì bị gió đao phanh thây, nằm nghỉ chẳng yên như bị đánh đập khổ sở. Tâm người ấy mê man phát khởi tư tưởng cuồng si, thấy nhà cửa, trai gái lớn nhỏ, tất cả đều là vật bất tịnh, phân, nước tiểu hôi thối tràn đầy chảy ra bên ngoài.
Bấy giờ, tội nhân liền nói rằng: Tại sao chỗ này không có thành quách và núi rừng đẹp để ta dạo chơi mà lại đến chỗ đầy các vật bất tịnh này?
Nói lời đó rồi, ngục tốt dùng chĩa sắt lớn nâng cao Ngục A tỳ và những rừng đao hóa thành cây báu và ao nước mát mẻ, lửa rực cháy hóa thành hoa sen cánh vàng, các con trùng mỏ sắt hóa thành le le và nhạn, tiếng thống khổ của địa ngục nghe như âm thanh ca vịnh.
Tội nhân nghe rồi nghĩ rằng: Như chỗ đẹp này, ta phải vào dạo chơi! Nghĩ rồi, tức thì người ấy ngồi trên hoa sen lửa, các loài trùng mỏ sắt theo lỗ chân lông của thân vào ăn nuốt thân thể người ấy, hàng trăm ngàn vòng sắt từ trên đỉnh đầu nhập vào, các chĩa sắt nhiều như cát Sông Hằng móc tròng mắt người ấy, con chó đồng của địa ngục hóa thành trăm ức chó sắt tranh nhau phanh thây người ấy, lấy tim mà ăn, trong chốc lát thân người ấy, như hoa bị cắt xén đầy mười tám ngăn. Mỗi hoa có tám vạn bốn ngàn cánh.
Mỗi cánh có đủ chi tiết đầu, thân, tay… ở tại một ngăn địa ngục mà địa ngục chẳng lớn, thân người này cũng chẳng nhỏ, đầy khắp như trong đại địa ngục này. Những tội nhân đó đọa vào địa ngục này trải qua tám vạn bốn ngàn đại kiếp Nê Lê này diệt, người ấy lại vào trong mười tám ngăn địa ngục ở phương Đông chịu khổ như trước.
Ngục A tỳ này ở phía Nam cũng có mười tám ngăn, phía Tây cũng có mười tám ngăn, ở phía Bắc cũng có mười tám ngăn có giảng nói trong Kinh Phương Đẳng. Tạo đủ tội ngũ nghịch, phá hoại Chúng Tăng, làm ô uế Tỳ Kheo Ni, đoạn trừ các căn lành… những tội nhân đầy đủ các tội ấy, thân đầy trong Ngục A tỳ, bốn chi lại đầy trong mười tám ngăn. Ngục A tỳ này chỉ thiêu đốt như những loại chúng sinh tạo tội như vậy.
Khi kiếp sắp hết thì cửa Đông liền mở, tội nhân thấy ngoài cửa Đông, suối nước trong tuôn chảy, rừng cây hoa trái, tất cả đều hiện ra. Những tội nhân đó thấy lửa cháy tạm tan nên từ ngăn dưới lần lần trườn lên vào trong ngăn trên, tay vịn vào bánh xe dao, trong hư không bỗng mưa xuống các hòn sắt nóng.
Tội nhân chạy về cửa hướng Đông, đến nơi thì cửa cài then, ngục tốt La Sát tay cầm chĩa sắt đâm ngược vào mắt họ, chó sắt nhai tim, buồn bực tuyệt vọng mà chết. Chết rồi sống lại, tội nhân thấy cửa Nam mở… như trước không khác. Như vậy, cửa Tây, cửa Bắc cũng đều như vậy. Thời gian này trải qua nửa kiếp.
Ở địa ngục A tỳ chết rồi sinh vào ngục băng lạnh. Ở ngục băng lạnh, chết rồi sinh vào ngục tối đen, chịu cảnh mắt không thấy gì trong tám ngàn vạn năm, bị làm thân trùng lớn trườn đi, các căn tối tăm không hiểu biết gì, bị hàng trăm ngàn chồn sói kéo dắt nhau ăn thịt. Sau khi qua đời, tội nhân sinh vào trong loài Súc Sanh, chịu hình hài chim thú năm ngàn vạn đời.
Trở lại sinh trong loài người thì tội nhân chịu thân điếc, đui, câm ngọng, ghẻ lở, ung thư, nghèo cùng, thấp hèn… tất cả mọi tướng suy bại đều phải mang vào thân. Chịu hình hài thấp hèn này trải qua năm trăm đời, sau đó tội nhân sinh trở lại trong đường ngạ quỷ.
Trong đường ngạ quỷ, tội nhân gặp được thiện tri thức, các vị Đại Bồ Tát quở trách tội nhân ấy rằng: Ngươi ở vô lượng đời, tiền thân đã tạo tội nhiều vô hạn, bài báng, chẳng có niềm tin, đọa vào địa ngục, chịu các khổ não chẳng thể nói đủ được.
Hôm nay, ngươi phải phát lòng từ bi! Các ngạ quỷ nghe lời nói đó rồi, xưng Nam Mô Phật, nghĩ đến ân đức và thần lực của Phật, tức thời liền qua đời và sinh lên cõi Tứ Thiền. Sinh lên cõi đó rồi, người ấy hối lỗi, tự trách, phát tâm Bồ Đề. Ánh sáng tâm của Chư Phật chẳng bỏ qua những điều này nên giáo hóa tất cả họ, thương xót họ như thương La Hầu La, dạy bảo họ tránh địa ngục như yêu tròng mắt của mình.
Đức Phật nói với Đại Vương rằng: Muốn biết chỗ chiếu soi của ánh sáng tâm Đức Phật, phải biết ánh sáng tâm của Phật thường soi chiếu những chúng sinh bị khổ không gián đoạn, không ai cứu này. Đối tượng duyên theo của tâm Phật thường duyên với những chúng sinh cực ác này. Nhờ tâm lực của Phật tự trang nghiêm qua vô số kiếp khiến cho tội nhân kia phát tâm Bồ Đề.
Đức Phật bảo A Nan: Sao gọi là mười tám địa ngục lạnh?
Địa ngục lạnh là nơi tám phương có núi băng. Mỗi núi băng có mười tám ngăn. Lại có mười tám những núi băng nhỏ màu như pha lê. Những băng lạnh này chứa đầy vùng núi băng như hoa sen, cao mười tám do tuần, bên trên có bánh xe băng, ngang dọc vuông vức mười hai do tuần.
Như Trời mưa đá, từ hư không rơi xuống. Thế gian có kẻ nào không có lòng từ, cướp đoạt vô đạo, lấy trộm, bóc lột, giết hại chúng sinh…, tội báo của những người này là khi sắp qua đời, tất cả gió đao hóa thành lửa nóng.
Tội nhân nghĩ: Hôm nay, sao ta chẳng nằm trên băng. Bị lửa bức ngặt nên khi khởi ý niệm đó thì ngục tốt La Sát, tay cầm bánh xe băng, như con nhạn trắng bay liệng nhẹ nhàng trên hư không mà đến. Tội nhân thấy vậy hết nóng được mát mẻ, tâm rất ưa thích, tắt thở và qua đời, sinh lên trên núi băng.
Sau khi sinh lên đó, mười tám núi băng như cái quạt, quạt tất cả băng lạnh theo lỗ chân lông mà vào đầy khắp trong mười tám ngăn. Mỗi ngăn mổ, cắt, bửa, tách tội nhân ra như hoa sen đỏ. Bên trên, bánh xe băng hạ xuống che khắp thân tội nhân ấy.
Rồi núi băng tám phương nhất thời đều hợp lại, không nói từ nào khác chỉ kêu rằng: A la la! Bấy giờ, tội nhân liền nghĩ rằng: Ta khi nào sẽ khỏi được băng lạnh, sinh ra trong lửa nóng?
Bấy giờ, trong hư không có những con chim sắt miệng phun ra lửa từ hư không hạ xuống phá đầu mổ não ăn, tội nhân chết liền.
Sau khi qua đời ngục tốt lại dùng chỉa sắt đánh xuống đất, kêu lên rằng: Sống dậy! Sống dậy!
Ứng theo tiếng kêu, tội nhân sống lại và suy nghĩ rằng: Ta nay, trên thân lửa lớn rực cháy, nguyện xin được băng lạnh như trước để dập tắt lửa này! Ngục tốt lại dùng bánh xe băng tiếp đón, đặt tội nhân vào trong ngục khác.
Như vậy, trong mười tám ngăn, không ngăn nào mà tội nhân chẳng trải qua. Số năm tuổi thọ của tội nhân ở địa ngục lạnh này như ngày tháng tám ngàn vạn năm của Tứ Thiên Vương. Tội đã hết rồi, người đó sinh làm người thấp hèn, nghèo cùng hèn hạ, trong năm trăm đời làm nô tỳ cho người, áo chẳng đủ mặc, ăn chẳng đủ no. Tội này hết rồi, người ấy gặp thiện tri thức, phát tâm bồ đề.
Đức Phật bảo A Nan: Sao gọi là địa ngục tối đen?
Địa Ngục tối đen là mười tám lớp núi đen, mười tám lớp lưới đen, mười tám lớp giường sắt, mười tám lớp màn sắt. Mỗi ngọn núi cao tám muôn bốn ngàn do tuần. Mỗi màn sắt cũng dày tám muôn bốn ngàn do tuần. Mỗi tấm màn có mười tám lớp núi Thiết Vi đen la liệt như rừng che tối núi này.
Thế gian có chúng sinh ngu si, lấy trộm đèn đuốc của Phật, Pháp, Tăng, trộm cắp của cha mẹ, Sư Trưởng, Hòa Thượng chê bai người nói pháp, cũng như hủy báng các chủ thuyết luận nghị của thế tục… chẳng có tôn ti, chẳng biết hổ thẹn.
Do tội này nên người đó khi qua đời, mắt có ánh điện chớp chớp chẳng dừng, liền nghĩ rằng: Ta có tội gì mà luôn bị thấy lửa đó?
Tội nhân liền nhắm hai mắt lại, chẳng chịu nhìn thấy ánh chớp ấy và ánh sáng mặt trời, mặt trăng. Khi tuổi thọ sắp hết thì ngục tốt La Sát nâng giường sắt lớn, giăng tán che bằng sắt lớn lên như đám mây lớn, cỡi hư không mà đi.
Bấy giờ, trong hư không, không hình có tiếng nói rằng: Chỗ này tối tăm, ngươi có muốn đến không?
Tội nhân nghe tiếng tức thời khởi tâm muốn đến chỗ đó. Hơi thở đứt, tội nhân qua đời liền ngồi trên giường sắt, như con nhạn chúa liệng đáp xuống chỗ tối đen. Đã vào trong đó rồi, tội nhân bị bánh xe đao từ trên chém xuống, chặt thân mình. Có con quạ sắt lớn mỏ lớn dài sắt bén, từ núi bay đến, mổ ăn tội nhân.
Đau đớn quá, tội nhân vội chạy đi tìm ánh sáng mà chẳng được, dưới chân bị gai tật lê đâm xuyên xương, thấu tủy… tội nhân sợ hãi như vậy trải qua năm trăm vạn ức năm, cũng như số ngày tháng năm của Tứ Thiên Vương. Đầu người đó đánh vào những núi tối đen, não chảy, mắt lòi, ngục tốt La Sát dùng chĩa sắt xiềng mắt đặt yên trở lại trong hốc mắt.
Tội hết mới ra làm người bần cùng, mắt mờ tối mù, không thấy, hoặc bị bệnh ghẻ lở, mọi người xua đuổi. Chịu tội báo như vậy trải qua năm trăm thân. Qua khỏi những việc đó, về sau tội nhân gặp được thiện tri thức, phát tâm bồ đề.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Lục Tập độ - Phần Mười Hai - Kinh Vua Ba Da
Phật Thuyết Kinh Văn Thù Sư Lợi Phổ Siêu Tam Muội - Phẩm Một - Phẩm Chánh Sĩ - Tập Một
Phật Thuyết Kinh Pháp Cú Thí Dụ - Phẩm Bốn Mươi Mốt - Phẩm đao Lợi - Thí Dụ Bảy Mươi Ba
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - Kinh Sáu Sáu - Phần Ba - Giảng Về Vô Ngã
Phật Thuyết Kinh Xuất Diệu - Phẩm Hai - Phẩm Dục - Tập Năm
Phật Thuyết Kinh Tăng Nhất A Hàm - Phẩm Ba Mươi Sáu - Phẩm Thính Pháp - Phần Một