Phật Thuyết Kinh Quán Sát Chư Pháp Hạnh - Phẩm Hai - Phẩm Cần Siêng đời Trước Tương ứng - Phần Một
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Xà Na Quật Đa, Đời Tùy
PHẬT THUYẾT KINH
QUÁN SÁT CHƯ PHÁP HẠNH
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Xà Na Quật Đa, Đời Tùy
PHẨM HAI
PHẨM CẦN SIÊNG ĐỜI TRƯỚC
TƯƠNG ỨNG
PHẦN MỘT
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn lại bảo Đại Bồ Tát Hỷ Vương rằng: Này Hỷ Vương! Lại nữa, Bồ Tát biết các pháp chẳng nương y, nên biết các pháp chẳng xuất, chẳng diệt, chẳng tác, chẳng sinh, xa lìa nhẹ rỗng, khinh hư tự không chẳng chắc, chẳng lấy, chẳng bỏ, nên biết các pháp vô thường, khổ, vô ngã, tịch tịnh.
Nên biết các pháp không, vô tướng, vô nguyện, nên biết các pháp vô ngã, vô chúng sinh, vô mạng, vô phú già la.
Nên biết các pháp chẳng hợp, chẳng nên làm, không tự thể, không tướng, không có, nên biết các pháp lìa nhiễm chẳng hành, lìa hý luận chẳng hành, đến tối thắng chẳng đủ thứ.
Không hí luận, lìa hí luận, chẳng thể lấy, chẳng giữ, không trú xứ, chẳng lại, chẳng đi, chẳng trụ, không chữ, chẳng thể nói.
Các pháp chẳng thể nói, chẳng thể đem lại, không nghiệp, không báo; nên biết các pháp chẳng phân biệt, không đủ thứ phân biệt, đoạn hết phân biệt, các tưởng và niệm đều đã đoạn trừ, phá Trời bằng đời được qua năm đường, qua khỏi chúng sinh.
Thắng chúng Ma La, vượt qua Ma La phiền não, ra khỏi Ma La tụ họp, đoạn dứt ma chết, đầy trí vô trước, nhiếp lấy thắng sắc ba đời, được sự yêu thích của các chúng sinh, được sự cúng dường của người trí.
Có thể ở các pháp thấy được pháp thể ấy, được nhục nhãn tịnh đến thiên nhãn sáng đến trí nhãn hành chẳng động pháp nhãn, đầy đủ Phật nhãn như trăng hiển chiếu, biết tâm của các chúng sinh, người chẳng cần hợp siêng hợp phải tạo sự xét biết, bỏ những cái đã thủ lấy.
Ở trong ba ngàn đại thiên Thế Giới, vì những Trời người tạo tác chi thể, đế tướng thuận theo, được tịnh hạnh địa, thông cõi vô ngã, biết đến cõi phát xuất, chỗ của các chúng sinh, phải tạo tác gần gũi tôn trọng, lìa tăng thượng mạn.
Có được sức nhẫn vượt qua năm chướng ngại, có thể với danh sắc biết bản tánh ấy, giác ngộ thuận theo ngôn từ mà các Đức Phật đã nói, thuận giác ba mươi tướng.
Với được, chẳng được lòng có sở thủ lấy đều đã vượt qua cái được của thế gian mà được thế pháp chẳng nhiễm, với các chúng sinh sẽ vì họ làm nhà, mở cửa Niết Bàn, khiến cho các chúng sinh vào được thành vô úy, cho vị Cam Lộ.
Diễn nói đến pháp, tỉnh ngủ phiền não, tan nóng của chúng sinh, đoạn dứt sự chấp trước, các kiến trói buộc v.v… của họ, sáu căn chẳng nhiễm mà vì chúng sinh nói pháp, được mười sáu chữ, cửa đã phát xuất Đà La Ni.
Cái gì là mười sáu thứ Đà La Ni đó?
Đó là chữ A là nghĩa chẳng sinh, chữ Ba là nghĩa tối thắng, chữ Già là nghĩa bốn thật, chữ Na là nghĩa biết danh sắc sinh, chữ Đà là nghĩa điều phục, chữ Sa là nghĩa vượt qua chấp trước, chữ Ca là nghĩa chẳng mất nghiệp báo, chữ Ta là nghĩa các pháp bình đẳng.
Chữ Dà là nghĩa thậm thâm, chữ Tha là nghĩa thế lực, chữ Xà là nghĩa vượt qua sinh Lão Tử, chữ Xa là nghĩa đoạn phiền não không còn, chữ Tha Sa là nghĩa xuất phát cao, chữ Sá là nghĩa trụ, chữ Trà là nghĩa giáo hóa Di lê xa ở biên địa bản chữ Phạm cũng thiếu một chữ.
Này Thiện Gia Tử! Đây là được mười sáu chữ đã phát ra Đà La Ni. Gọi là được Đà La Ni là chỗ sinh ra trí khéo léo giải biết các pháp vốn tự rỗng không, khéo sinh ra trí tự âm, chữ âm thanh giải biết được không, ưa giải thoát của Phật, bỏ ái, chẳng ái mà không nuối tiếc.
Với lập luận khác của các ngoại đạo thì đúng như pháp mà hàng phục, nói tiếng rống sư tử, đắc được Phật trí, hưng khởi pháp thí, vứt bỏ các phiền não, phá nghĩa oán ác, tin pháp luân của Chư Phật chuyển, thông đạt được Như cho đến biết pháp, sân hận kiêu mạn đã lìa, bùn dục chẳng nhiễm, điều ngự chúng sinh.
Trừ khử dơ bẩn, có thể dùng nước bị gột rửa chúng sinh, thống lĩnh đồ chúng, thuận được thế lực, vượt qua già chết, nghĩ ngàn số kiếp, tổng trì pháp tạng, thông đạt cõi tịch tịnh, được Không đẳng trí, thuận giác hết pháp, các chúng sinh v.v… đã ứng lời khen ngợi, đầy vô chướng trí, được không nhiệt não.
Huân tập thuận hạnh, tiêu diệt quân ma, bóng che ba ngàn Đại Thiên Thế Giới, thuận niệm đời trước, chiêu tập Niết Bàn địa, tạo tác thú hướng y chỉ, người tại gia ấy đều che hộ hết, biết chỗ và chẳng phải chỗ.
Chẳng bỏ lời thề trước. Với các chúng sinh đem Từ đầy khắp, biết gom sở niệm của chúng sinh, nghe ý sẽ tạo tác chánh chơn, được giới hương Chiên Đàn Na, được đường sinh tử, thuận được Niết Bàn, biết các pháp như chữ Na chạm xúc trụ.
Này Hỷ Vương! Đó là chữ Na trở lên không chữ. Đó cũng không tên, cũng chẳng thể nói, cũng không có tiếng, chẳng thi thiết, thi hành thiết lập tên, chẳng biết tên gọi.
Trong ngôn từ các tiếng đó chẳng quá khứ, chẳng vị lai, chẳng hiện tại. Các Đức Phật đó chẳng đã nói, chẳng nay nói, chẳng sẽ nói, chẳng sinh, chẳng xuất. Các pháp tướng như vậy v.v… Bồ Tát phải biết.
Này Hỷ Vương! Lại có mười sáu chữ nhập môn Đà La Ni. Cái gọi là giác ngộ hành tướng của chữ là nói pháp thắng nghĩa, qua khỏi bốn dòng tứ lưu, nói pháp không có danh sắc, khéo léo bố thí, tự thủ giữ ở nhẫn, chẳng cậy sáu căn, hành theo Lục Độ.
Khiến diệt phiền não dục mà vì chúng sinh nói pháp, khéo biết các pháp sai biệt, không được nghi ngờ sâu, nói xứ chẳng phải xứ, biết sở hạnh của các chúng sinh, nhịn lời thô ác, xả bỏ da thịt tủy, biết hạnh niệm ý, an trụ pháp giới, giải biết chữ Na vào hết các pháp.
Này Hỷ Vương! Đây là mười sáu thứ chữ nhập môn Đà La Ni.
Này Hỷ Vương! Nếu Đại Bồ Tát hiểu đúng mười sáu thứ chữ nhập môn Đà La Ni đó như chữ A là nghĩa vô sinh, chữ Ba là nghĩa tối thắng chữ Già là nghĩa độ bốn dòng, chữ Na là nghĩa nói danh sắc, chữ Đà là nghĩa bố thí tự giữ hòa hợp, chữ Sa là nghĩa trí Lục Thông.
Chữ Ca là nghĩa chẳng thấy nghiệp báo, chữ Sà là nghĩa các pháp bình đẳng, chữ Dà là nghĩa thậm thâm, chữ Tha là nghĩa thị hiện thế lực, chữ Xà là nghĩa thị hiện sinh tử, chữ Xoa là nghĩa thị hiện sức nhẫn.
Chữ Xa là nghĩa vứt bỏ phiền não cực ác, chữ Ta Ma là nghĩa tự đại chứng giác, chữ Ta Tha là nghĩa nói xứ chẳng phải xứ, chữ Đa là nghĩa nói tận biên… thì những Bồ Tát đó được những điều này gọi tên là Quyết Định Quan Sát các pháp hạnh Tam Ma Địa.
Nhân mười sáu thứ chữ Đà La Ni này, các Đại Bồ Tát chẳng bị sự quở trách của người trí, bỏ tham dục, sân hận, ngu si, diễn nói đạo đến bờ kia, được bốn vô úy, thọ thân lực sĩ, cắt đứt cành dục, được sức mười lực, gặp được Diệu Âm, được diệt nhiệt não.
Trao ký cho Thanh Văn, Độc Giác, xa lìa tả đạo, được Như Lai địa, lời nói của Như, tạo tác của Như liền được, chúng sinh cao mạn sẽ khiến cho giải thoát, làm sự nghiệp của Phật, thuận được tụ trí, chúng sinh bị nghi thì đoạn sự nghi hoặc ấy.
Do sự có hòa thiện nên chung trụ yên vui, tràn đầy đại bi, vượt cảnh giới ma, tràn đầy tiếng hay, trừ kiêu mạn phóng dật mà được với nhẫn, giỏi định sâu, khiến qua các đường mà vì nói pháp, ở trong các pháp khiến cho được chỗ nông cạn vì trụ bờ kia khiến đến chỗ đất, biết sở hạnh của các chúng sinh.
Biết phương tiện hạnh của các pháp, nhớ vô số kiếp giữ các pháp thể, tịch diệt các ác, thanh tịnh các nghi, được không đẳng trí, thuận đến chỗ diệt phiền não, chóng đạp lên giác trường, Trời Rồng phải khen ngợi, thuận giác các trí, khéo diệt cháy nóng.
Nói tự thể của các chúng sinh, ăn món ăn cam lộ, đoạn các nghi thụy, nghi hoặc, thụy miên, lìa bỏ theo chấp trước tập khí sở hữu, dùng đại bi ấy che chở các chúng sinh, nghĩ trước đời trước, thấy công đức ở Niết Bàn, thuận hiểu sở hạnh của phàm phu, được đại trí mật hủy hoại các niệm khác.
Kêu với loa pháp, khiến trụ Phật trí, vượt chủng loại tướng, thuận hiểu sinh ra, biết chỗ chúng sinh, có thể khiến cõi Phật phong mãn, không cháy rực kia, lìa khỏi già bệnh, chóng có thể thuận hiểu mật ngữ phương tiện, đoạn đường sinh tử.
Thuận đến Niết Bàn yên ổn, với bọn ác ma chóng có thể hàng phục, ở trong vô lượng Thế Giới thấy Phật Thế Tôn, ly dục rồi mà nghe pháp, cũng chẳng quên trí, như đã hy vọng thủ lấy cõi Phật, khéo biết du hý, sinh ra các Tam Ma Địa.
Này Hỷ Vương! Đại Bồ Tát nếu được Thuyết quyết định quan sát Chư Pháp Hạnh Tam Ma Địa này thì phải biết cũng được Nhất Thiết Trí.
Vì sao vậy?
Nhưng lúc nào thì Bồ Tát đó muốn chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác?
Hoặc một đời, hoặc hai, hoặc ba, hoặc bốn, hoặc năm, hoặc mười, hoặc hai mươi, hoặc trăm đời, hoặc ngàn đời, hoặc trăm ngàn đời, hoặc một kiếp, hoặc trăm kiếp, hoặc ngàn kiếp, hoặc trăm ngàn kiếp… cho đến muốn vào thời gian lâu thì Bồ Tát đó cũng lâu mới chứng giác. Dùng nguyện tự tại, ở trong lưu chuyển, đến tận bờ cõi kiếp sau cùng.
Vì sao vậy?
Nhưng về sau, ở trong các pháp tự tại. Khi Đức Phật nói bản pháp phẩm Đà La Ni tự môn này thì ba mươi hai ngàn Bồ Tát được nhẫn. Lúc đó ba ngàn đại thiên Thế Giới này sáu thứ chấn động.
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói bài tụng ca này rằng:
Không lẫn không đục không uế tạp
Lìa phi thú chẳng phải đường đi đến Cam Lồ
Ứng Trời Đất cúng, không ai so Vô Đẳng
Trì phương tiện này, hành mười lực
Vui làm ly oan, hoang trần diệt
Mặt như hoa nở, người Trời vui
Bậc Ứng Thắng, đức độ hữu lưu
Trì phương tiện này hành mười lực.
Trừ diệt chúng khác, khéo hạnh khác
Người Trời ái trọng, ý khác tan
Phân biệt hạnh khác ý khéo khôn
Trong đạo này hành hạnh mười lực.
hữu, thủ, bất như hạnh bỏ hết
Xét hiểu người Trời, ý quyết như
Hạnh hiển như trăng trong cõi hư không
Bậc hữu nhãn hạnh hành kẻ trí.
Người Trời thương yêu người ý đó
Chẳng ưa cảnh hữu thú, không lầm
Phân nói trong chúng, hạnh hàng trăm
Hạnh bậc trí này soi các hướng.
Được mười, hai mươi… có hai khoảng
Người Trời phụng các tướng đẹp tươi
Được, mất chẳng trước, lìa cả hai
Kia được hạnh này soi mọi hướng
Thí chủ cam lồ hành thí thiện giỏi, khéo
Thường cùng thắng trì thế ngưu vương
Sức lớn mười lực, lực khác hàng qui phục
Chẳng lâu được hạnh người trí ấy.
Phân biệt nhiều đức, thắng niệm ý
Tịch diệt nhiều khổ cùng nhiều vui
Nhiều người tôn trọng, khéo phụng thờ
Học đây, vui công đức trí Phật.
Như Vua trâu, chẳng lâu hàng phục
Diệt trăm nhiệt não, các nhiệt nóng lìa
Bay đường hư không, trăm cõi qua
Hành phương tiện này soi các hướng.
Chỗ tin khéo léo các thế tín
Tin ý thẹn tàm trụ niệm không ai bằng vô đẳng
Chấn khử trăm phước đắm trước tạo thế hương hương đời
Trì phương tiện này, trăm đức tụ gom
Phân biệt nhiều đức, trừ ba cấu
Đó có lời mỹ diệu trơn thuần
Giỏi nói trong Trời Đất trăm phần
Trì đức này tài của thắng vô tỷ không ai bằng.
Độ người Trời, trụ thành vô úy
Lời nói Như, thôi bỏ ám trần
Như hành, vô não hành Như hành
Trì phương tiện này, hạnh mười lực.
Của Cam Lồ thắng danh nghe được
Thắng đức vô đẳng được hành như
Ý Như, người Trời, lời nói như
Người trí học đạo Cam Lộ ấy.
Vô trần soi khắp mười phương cõi
Thoát mạn, chúng sinh thẳng không co
Đến thành vô úy, lìa mạn kiêu
Trì phương tiện này, hạnh mười lực.
Hợp hóa người Trời bằng ngôn thuyết
Chẳng vui thích dục, thích pháp chơn
Nói làm, người làm, nói trăm hành động
Học phương tiện này, bậc thiện ý.
Tịnh chúng sinh đẳng hạnh, đẳng ý
Nói thiện hợp, thiện mỹ, thiện hành
Trong các pháp khéo thường vui cùng
Hành phương tiện này ưa móc ngọt Cam Lộ
Lực ác ma, chẳng lâu hàng phục
Trừ bỏ hoang cấu, ba cấu tan
Hành ở đất này của cải thêm
Trì phương tiện ấy, hạnh mười lực
Hành thắng thú đường, vượt qua đường ác
Chúa thú vật voi ngựa, hành giả đùa giỡn
Khen đức, trì đức, trăm đức thừa đầy tràn
Chẳng lâu được hạnh người trí ấy.
Hành xử khéo léo, chẳng trụ hữu
Thị hiện thế lực quyết định hơn thắng lực
Đến đất, trụ nước cấu bẩn tan
Như học hạnh này, mười lực hạnh.
Bỏ thành cùng đất đai thôn xóm
Bỏ ái, chẳng ái, cảnh chẳng yêu
Bỏ thắng thọ cây, bỏ người oán thù
Người trí học đây, lực quyết tiến.
Nhiều trăm kiếp quá khứ ức niệm
Nhớ chết và sinh trong các đời
Và nhớ pháp thuở trước nghe rồi
Trì tịch tịnh này, thắng định ý
Đuốc pháp cháy rực, thường khiến hữu
Vui pháp, tài pháp kia thí ban
Và sở hạnh mười lực giữ gìn
Trì tịch tịnh này thắng định ý.
Trụ Xá ma tha có từ ý
Tịch tịnh chỉ ý tịch tịnh căn
Tịnh giới, tiếng ái ngữ ngọt ngon
Trì Tam Ma Địa này phải có
Như tê giác đi, không ngã sở
Được đến phương nhàn cùng đạo nhàn
Theo chỗ trụ, lìa tám chẳng nhàn.
Trì tịch tịnh này, thắng ý định.
Với niệm giác, biết hạnh tự tính
Cũng sẽ biết tận pháp hoàn toàn
Lực kham nhẫn tối thắng hiện lên
Ở trong này học hạnh nghĩa thắng
Nên được các thế gian tán thán
Được hàng trăm Trời sẽ ngợi khen
Chỗ làm, người làm làm lặng yên tịch tịnh
Ở biến trí này trụ thân cận.
Dấu chân chim bay sẽ hành thuận
Dược tịch diệt với các não phiền
Phương tiện đó, Ma La chẳng làm
Tịnh này khó thấy, siêng tương ứng
Nói quyết định giác, Thiện Thệ hạnh
Tạo vô hữu, bứng hữu ái lên
Được người trong đời cung phụng luôn
Trì tịch tịnh này, thắng định ý.
Người đoạn đã hợp với tịnh ấy
Đoạn xong phiền não, ba cõi soi
Tạo tác bóng che khắp mọi nơi
Nếu trì thắng tam muội này được
Nghĩ sở hạnh mình và người khác
Nghĩ rồi vì họ nói như thuận hành
Hạnh bậc thể thắng không mạn hành
Trì Tịch tịnh này thắng định ý.
Có thí xả rồi, điều phục ý
Thú hướng Thiện Thệ đi đến mau
Nói vô úy, ban vô úy cho
Định thượng thắng này thì liền được.
Ở trong các đời sẽ thân thích
Lầm lẫn khỏi rồi lại hiểu thông
Họp chung nói bàn thật khéo khôn
Nếu người tu hành tam muội ấy.
Thân bằng kim cương hợp nhất lại
Mau chóng phá tan quân Ma La
Thuần bạch tịnh soi không bợn dơ
Trì tịch tịnh này thắng định ý.
Phải chỗ mà trụ, phù hợp chỗ
Ở chỗ chẳng trụ được ý trên
Ở chỗ Phi Xứ có khéo khôn
Nếu người định ý này giữ gìn được.
Không trước chấp biện nói Phật công đức
Sinh ra câu trí giác giải nhiều
Kia chẳng chính ý không nghi ngờ
Thắng định ý này có thể giữ.
Chóng có thể tin Cam Lộ đó
Cũng thường tin cùng với người vui
Hộ đời khác khi được quả rồi
Thắng định ý này có thể giữ.
Tự biết rỗng không đối với tụ
Kia không lẫn lộn không mê lầm
Đến trong ba hữu các hạnh lành
Tam Muội này, nếu người gìn giữ.
Sẽ được xa lìa lão bệnh tử
Khéo thẳng ngay chẳng bị người hàng phục
Tâm ấy trì giới luôn vui mừng
Định ý này nếu người gìn giữ.
Cắt đứt cây sinh là Thánh đạo
Mau chạm đến tịch tịnh Niết Bàn
Đất Di Lê xa chẳng nhiều thêm
Tam Muội này nếu người gìn giữ.
Chẳng tự tán dương, lời xảo diệu,
Trên mọi đức, công đức lừng vang
Vào chúng, đoan chính hiện rõ ràng
Như sao Mão, Trời, Trăng sạch rỗng trống không
Chúng quyến thuộc, nhà đủ danh tánh
Bà con Thiện Thệ người đó gần
Tài biện luận người đó như thủy Vương Vua nước
Là Tam Muội này phải gìn giữ.
Tự tính pháp, hạnh tướng vô ngã
Ở trong các đời thuận giác xong
Mau làm chúa dũng kiện ba ngàn
Hạnh bình đẳng Kinh này hiếm có.
Cho đến rừng trong ba ngàn cõi
Họ Tính người, ba loại hạnh chúng sinh
Với thắng thượng đó được trí môn
Cần siêng này tương ưng chạm Cam Lộ,
Dao độc và lửa chẳng vào đó
Chẳng sợ cùm trói các não phiền
Dạ Xoa, La Sát chẳng hại tan
Tương ưng này nếu lòng tịnh tín.
Của không mất, của chẳng ly tán
Không nghiệp báo, không bệnh, không lo
Chẳng câm, chẳng chột cũng chẳng mù
Trì bốn câu này như vậy đó.
Trên hai chân sáu mươi ba ức
Khắp nghĩ đến sự tương ứng này
Chỗ đó nếu cùng tạng tổng trì
Tịch này khó thấy đã tương ứng.
Nếu bồ đề muốn mau chạm đến
Nếu muốn lấy đức yên ổn hơn
Nên khiến hành thắng Kinh này liền
Thì các hy vọng đều đầy đủ.
Kia đã nghe niềm vui thiện hỷ
Nếu người ở trong cầu bồ đề
Siêng năng tương ứng bốn ngày qua
Thì kia sẽ được thắng tịch định.
Tám mươi câu trí trên hai cẳng chân?
Còn hơn sáu mươi na do đa?
Đều nghĩ cùng với tương ứng này
Tam Ma Địa này chuyển tụng tác.
Nếu nghe thiện này, lợi ích được
Nghe rồi nếu có tín giải liền
Trong công Đức Phật, không nghi nan
Như đến bồ đề, trì như vậy.
Thật hạnh này, kia đã nghe nói
Không được không đức vui chay lười
Các phước nhất định đến trong tay
Nếu trì Kinh này hoặc ghi chép.
Ta nhớ trước đây vô số kiếp
Có bậc tối thắng tên Biện Tràng
Thắng tam muội này, Ngài tuyên dương
Vương Tử Nguyệt Diệu nghe điều đó
Mà xuất gia, vương vị chóng bỏ.
Ông ấy nghe một đêm một ngày
Đến lúc chết, trong phần sau này
Lại được sinh đến những cõi khác
Nhiều như cát, Kinh đó nghe được
Thấy rồi, lại thấy, thắng vô biên
Các chỗ nghe tam muội này xong
Thì trong ba kiếp, Thắng Giác chứng
Gọi là bậc Bảo Viêm Tối Thắng
Được Phật Nhiên Đăng thọ ký cho.
Nghe Kinh này, như vậy lợi to
Nên đã nghe rồi chớ lười biếng.
Ta nay muốn bảo với đại chúng,
Tốt đẹp sở hữu của Trời người
Ta ở trong này mở kho báu
Của cải mười lực ông lấy đi!
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba