Phật Thuyết Kinh Quang Tán - Phẩm Hai Mươi Năm - Phẩm Vấn
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
PHẬT THUYẾT KINH QUANG TÁN
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
PHẨM HAI MƯƠI NĂM
PHẨM VẤN
Bấy giờ Thích Đề Hoàn Nhân, bốn Thiên vương, các Trời Diệm, các Trời Đâu Thuật, các Trời Ni Ma La, các Trời Ba La Ni Mật, các Trời Phạm, các Trời Ca Di, các Trời Thủ Đà Vệ, cùng vô số ức trăm ngàn Thiên Nhân trong Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới, Chư Thiên Nhân này do phước đức đời trước nên ánh sáng rực rỡ, nhưng so với Như Lai thì ánh sáng của Ngài gấp trăm ức ngàn ức vạn lần, gấp hơn ức vạn lần.
Ngài là bậc Tôn quý, là bậc Cao thượng, là bậc không ai sánh bằng, là bậc không ai so sánh, không gì là chẳng thông đạt.
Bấy giờ Thích Đề Hoàn Nhân thưa với Hiền Giả Tu Bồ Đề: Nay bốn Thiên vương, Chư Thiên Thủ Đà Vệ… đều đến dự đại hội, muốn nghe Hiền Giả Tu Bồ Đề nói pháp bát nhã Ba la mật.
Đại Bồ Tát an trụ trong bát nhã Ba la mật như thế nào?
Nên hành như thế nào?
Ngài Tu Bồ Đề nói với Thích Đề Hoàn Nhân: Chư Thiên Tử muốn nghe, tôi sẽ nói.
Ngài Tu Bồ Đề nương oai thần của Đức Phật, nhờ ân Đức Phật trợ giúp để nói bát nhã Ba la mật, ứng với sự lập hạnh của các Bồ Tát.
Ngài Tu Bồ Đề nói: Vị Thiên Tử nào chưa phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Giác thì nay nên phát. Vị nào vào chánh kiến Thanh Văn thì chẳng thể phát tâm đại đạo.
Vì sao?
Vì đã bít lấp đường sinh tử. Nhưng tôi chính thức khiến cho những người này hành đạo Bồ Tát. Tôi nhân danh niềm vui của họ để khuyến trợ làm cho họ phát tâm Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Tôi không bao giờ đoạn mất công đức của họ. Tôi muốn làm cho họ chọn pháp trung đạo tôn quý, chính là muốn cho họ đạt Phật đạo vô thượng.
Ngài Tu Bồ Đề nói với Thích Đề Hoàn Nhân: Vừa rồi, ông hỏi, Bồ Tát an trú trong bát nhã Ba la mật như thế nào?
Tâm trí nhất thiết của Đại Bồ Tát chẳng chấp sắc có thường hoặc vô thường, hoặc khổ hoặc vui, hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng chấp họa hoạn về bệnh tật lo sầu, có hại, không hại, có ràng buộc, không ràng buộc, có độ thoát, không độ thoát, hoại diệt sự sợ hãi thường gặp, đạt đến thân rỗng không, rốt ráo không còn tin gì, không tranh tụng, cũng không nhớ nghĩ, không có điên đảo.
Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như thế. Đối với nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Địa, thủy, hỏa, phong, không, thức chẳng thấy có thường, vô thường, có ngã, vô ngã, hoặc khổ, hoặc vui và các hoạn nạn tật bệnh lo sầu. Đối với các loại thanh sắc, không nhớ nghĩ, cũng không điên đảo. Năm ấm, sáu suy và các thức chủng tịch nhiên, không thật. Các điều tưởng nghĩ, xét theo Phật Pháp, đều là điên đảo.
Lại nữa, này Câu Dực! Đại Bồ Tát muốn tương ưng tâm trí nhất thiết để hành thí Ba la mật thì không chấp trước, hành giới, nhẫn, tinh tấn, thiền đều không chấp trước.
Lại nữa, này Câu Dực! Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật, quán sát các pháp, biết rõ các pháp, biết rõ các pháp lần lượt là nhân duyên thành tựu cho nhau, được đầy đủ rồi, lần lượt hình thành sự hiểu biết về các pháp là không có tôi ta, cũng không có thân. Bồ Tát dùng điều đó để khuyến trợ đạo tâm. Cái đạo tâm ấy cũng không sở hữu.
Ngài Tu Bồ Đề nói với Câu Dực: Khuyến trợ đạo tâm biết không sở hữu tức là biết đạo tâm. Mà không sở hữu thì chẳng thể nắm bắt được.
Nếu khuyến trợ đạo tâm, chẳng nắm bắt được thì, này Câu Dực! Đó là Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật, quán tất cả các pháp chẳng thấy các pháp là cái có thể nắm bắt được.
Thích Đề Hoàn Nhân hỏi Tôn Giả Tu Bồ Đề: Thế nào là khuyến trợ đạo tâm mà không sở hữu?
Thế nào là khuyến trợ đạo tâm mà chẳng thể nắm bắt được?
Thế nào là khuyến trợ đạo tâm không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được?
Ngài Tu Bồ Đề trả lời Thích Đề Hoàn Nhân: Này Câu Dực! Tâm khuyến trợ ấy cùng với tâm vốn là đạo tâm. Như vậy thì không có tâm nào khác. Không có tâm thì dùng không tâm mà khuyến trợ, không có không niệm, dùng không niệm để khuyến trợ. Nếu không tâm thì dùng không tâm, không có niệm thì dùng không có niệm tức là bát nhã Ba la mật của Đại Bồ Tát.
Đức Phật dạy: Hay thay, hay thay! Này Tu Bồ Đề! Nếu có thể khuyến trợ Đại Bồ Tát thì mới nói bát nhã Ba la mật như vậy.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Con đem thân mình báo đáp công ân của Phật, hành sự nhiều lần.
Vì sao?
Vì chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ khiến các đệ tử vì các Bồ Tát nói bát nhã Ba la mật. Thuở quá khứ, Chư Phật vì các Bồ Tát khuyến trợ giảng nói sáu pháp Ba la mật, các Ngài tuần tự khen ngợi, dẫn dụ tiến tới, khuyến hóa kiến lập đạo phẩm ấy. Thuở ấy, Thế Tôn vốn cùng với các Bồ Tát hưng khởi sáu pháp Ba la mật, đắc Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác thành không thoái chuyển.
Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Nay con cũng như thế, sẽ khuyến trợ các Đại Bồ Tát phát khởi sự tin ưa thọ trì sáu pháp Ba la mật, khai hóa kiến lập Phật đạo. Con đã thọ trì rồi, đã khiến họ ưa thích rồi, ân cần khuyến lập sẽ khiến cho Đại Bồ Tát mau thành tựu vô thượng bồ đề không thoái chuyển.
Ngài Tu Bồ Đề nói với Thích Đề Hoàn Nhân: Này Câu Dực! Hãy lắng nghe! Vừa rồi ông hỏi, Bồ Tát an trú trong bát nhã Ba la mật thế nào mà không chỗ trú?
Này Câu Dực! Cái gọi là sắc thì sắc đó tức là không. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại là không. Cái gọi là Bồ Tát thì Bồ Tát là không. Vì sắc là không cho nên Bồ Tát là không, không có hai, cũng không nhiều. Vì thọ, tưởng, hành, thức là không nên Bồ Tát cũng là không, không có hai, cũng không nhiều.
Này Câu Dực! Đó là Đại Bồ Tát an trú trong bát nhã Ba la mật.
Lại nữa, này Câu Dực! Cái gọi là nhãn thì nhãn tức là không. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng lại như thế. Cái gọi là Bồ Tát thì Bồ Tát cũng là không. Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý là không cho nên Bồ Tát cũng là không, không có hai, cũng không có nhiều. Địa, thủy, hỏa, phong là không vì vậy Bồ Tát cũng là không. Sáu sự trong thân đều không sở hữu, gốc ngọn đều là không, cũng không có hai, cũng không có nhiều.
Này Câu Dực! Như vậy là Đại Bồ Tát an trú trong bát nhã Ba la mật.
Lại nữa, này Câu Dực! Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật, hiểu rõ si là không, sắc, lục nhập, cánh, lạc, thống, ái, thọ, hữu, sinh lão bệnh tử cũng lại là không. Vì mười hai nhân duyên diệt hết cho nên gọi là không. Mười hai nhân duyên là không cho nên Bồ Tát cũng là không, không có hai, cũng không có nhiều.
Này Câu Dực! Như vậy là Đại Bồ Tát an trú trong bát nhã Ba la mật.
Lại nữa, Câu Dực! Vì Thí Ba la mật là không nên Bồ Tát là không. Giới, nhẫn, tinh tấn, thiền, bát nhã Ba la mật cũng lại là không. Vì sáu pháp Ba la mật là không nên Bồ Tát là không. Đó là Đại Bồ Tát an trú trong bát nhã Ba la mật.
Lại nữa, này Câu Dực! Pháp nội không, pháp ngoại không, pháp không gần, pháp không xa, pháp chân không, pháp sở hữu không, pháp không sở hữu không đều là không cho nên Bồ Tát cũng là không.
Bốn ý chỉ, bốn ý đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy giác ý, tám Thánh Đạo, mười lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp bất cộng của Chư Phật, tất cả các môn tam muội, môn Đà La Ni đều là không cho nên Bồ Tát là không. Sáu pháp Ba la mật, ba mươi bảy phẩm đều là không, bảy không là không, pháp của Chư Phật là không, các môn tam muội là không, môn Đà La Ni là không, không có hai, cũng không có nhiều.
Này Câu Dực! Đó là Đại Bồ Tát an trú trong bát nhã Ba la mật.
Lại nữa, này Câu Dực! Trí nhất thiết là không. Vì trí nhất thiết là không nên Bồ Tát cũng là không. Trí nhất thiết là không và Bồ Tát cũng là không cho nên đều không có hai, không có nhiều.
Này Câu Dực! Đó là Đại Bồ Tát an trú trong bát nhã Ba la mật.
Bấy giờ Thích Đề Hoàn Nhân hỏi Tôn Giả Tu Bồ Đề: Đại Bồ Tát an trú trong bát nhã Ba la mật như thế nào?
Ngài Tu Bồ Đề trả lời: Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật chẳng nên trụ trong sắc, chẳng nên trụ trong thọ, tưởng, hành, thức, chẳng nên trụ trong nhãn xúc. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng lại như thế, không xúc, không trụ. Địa, thủy, hỏa, phong cũng không xúc, cũng không trụ.
Chẳng nên trụ ý chỉ, ý đoạn, căn, lực, giác ý, tám Thánh Đạo. Chẳng nên trụ trí nhất thiết. Chẳng nên trụ Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, ALa Hán, Bích Chi Phật và Phật đạo. Chẳng nên trụ có thường, vô thường của sắc. Chẳng nên trụ có thường, vô thường của thọ, tưởng, hành, thức.
Chẳng nên trụ khổ, vui của sắc. Chẳng nên trụ tịnh, bất tịnh của sắc. Chẳng nên trụ ngã sở, chẳng phải ngã sở của sắc. Chẳng nên trụ không, bất không của sắc. Chẳng nên trụ tịch tĩnh, bất tịch tĩnh của sắc. Chẳng nên trụ không thật, không không thật. Chẳng nên trụ có Tu Đà Hoàn, không có Tu Đà Hoàn. Chẳng nên trụ có Tư Đà Hàm, không có Tư Đà Hàm.
Chẳng nên trụ có A Na Hàm, không có A Na Hàm. Chẳng nên trụ có A La Hán, không có A La Hán. Chẳng nên trụ có Bích Chi Phật, không có Bích Chi Phật. Chẳng nên trụ có Phật, không có Phật. Chẳng nên trụ bốn đạo Thế Tôn, Bích Chi Phật, Phật Thế Tôn.
Lại nữa, này Câu Dực! Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật chẳng nên trụ trụ địa Bồ Tát thứ nhất, thứ hai, thứ ba, thứ tư, thứ năm, thứ sáu, thứ bảy, thứ tám, thứ chín, thứ mười, từ lúc mới phát tâm cho đến không thoái chuyển, cũng không chỗ trụ.
Bồ Tát chẳng nên trụ đầy đủ thí Ba la mật, giới, nhẫn, tinh tấn, thiền, bát nhã Ba la mật cũng lại như thế. Chẳng nên trụ ba mươi bảy phẩm, mười lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp bất cộng của Chư Phật.
Đại Bồ Tát chẳng nên nghĩ thế nào?
Đó là Ta nhập pháp Bồ Tát. Ta nhập địa không thoái chuyển. Chẳng nên khởi trụ như thế.
Đại Bồ Tát chẳng nên trụ năm thần thông, cũng chẳng nên trụ năm thần thông của Bồ Tát. Đã đắc năm thần thông rồi đến vô số vô số cõi nước Chư Phật, chiêm ngưỡng Chư Phật Thiên Trung Thiên, cúi đầu làm lễ, lắng nghe thuyết pháp, như pháp đã thọ, nói lại cho hội chúng.
Đại Bồ Tát chẳng nên khởi trụ này: Như cõi nước mà Đức Phật Thiên Trung Thiên đã biến hiện, ta sẽ hóa hiện Thế Giới như thế.
Đại Bồ Tát chẳng nên khởi trụ Thế Giới này: Ta sẽ khai hóa tất cả chúng sinh.
Chẳng nên nghĩ: Ta sẽ trụ ở vô số vô số Thế Giới, chiêm ngưỡng chư Như Lai, cúng dường hoa hương, hương bột, hương tạp, cờ phướn, lọng lụa.
Chẳng nên nghĩ: Ta sẽ khai hóa vô số vô số người, khiến khởi tâm Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.
Bồ Tát chẳng nên nghĩ thế này: Ta sẽ thành lập năm nhãn đầy đủ.
Những gì là năm?
Đó là nhục nhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn.
Chẳng nên nghĩ: Ta sẽ khởi lập tất cả bình đẳng mới có thể thành tựu các môn tam muội, để dùng chúng tự vui.
Chẳng nên nghĩ: Đắc môn Đà La Ni, mười Lực của Như Lai, bốn vô sở úy, bốn phân biệt biện, bốn sự bất hộ, mười tám pháp bất cộng của Chư Phật.
Chẳng nên nghĩ: Ta sẽ đầy đủ đại từ, đại bi.
Chẳng nên trụ ba mươi hai tướng, đầy đủ tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm thân. Chẳng nên trụ pháp Bát đẳng, dốc lòng tin thọ trì. Chẳng nên trụ Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, Bích Chi Phật. Chẳng nên trụ Tu Đà Hoàn bảy lần chết, bảy lần sinh để giải thoát. Chẳng nên trụ phược kỳ là một hạng chân nhân đứng đầu, hết các trần lao.
Chẳng trụ trong Niết Bàn của Tu Đà Hoàn. Chẳng nên trụ Tư Đà Hàm.
Vì sao?
Vì tới lui trong thế gian để dứt hết khổ, vào diệt độ.
Chẳng nên trụ quả chứng A Na Hàm.
Vì sao?
Vì thành A Na Hàm rồi liền ở trên Cõi Trời vào Niết Bàn.
Chẳng nên trụ quả chứng A La Hán.
Vì sao?
Vì thành đạo A La Hán rồi liền trụ trong Vô dư Niết Bàn. Chẳng nên nhập Niết Bàn cho nên chẳng nên trụ. Niết Bàn của Bích Chi Phật vượt qua Niết Bàn địa Thanh Văn, mhưng chẳng thể sánh kịp Niết Bàn của Phật. Vì vậy, chẳng nên trụ trong đạo của Bích Chi Phật. Chẳng nên trụ việc đạo, ở trong đạo tuệ mà không chấp trước.
Chẳng nên trụ trí nhất thiết.
Vì sao?
Vì trí nhất thiết hiểu rõ tất cả pháp, thành Đẳng Chánh Giác, dứt các kiết trần lao chướng ngại.
Vì sao?
Vì Như Lai thành Đẳng Chánh Giác liền chuyển pháp luân, tức là làm Phật sự độ vô số người chẳng thể tính đếm, khiến nhập Niết Bàn. Vì vậy, chẳng nên trụ trong Phật, trụ bốn thần túc, dùng tam muội sắc tượng, loại tam muội vượt qua và tồn tại hằng hà sa số kiếp.
Chẳng nên trụ thọ mạng vô số. Chẳng nên trụ ba mươi hai tướng mà mỗi tướng cả trăm công đức được thành tự. Chẳng nên trụ hằng hà sa Thế Giới Chư Phật. Chẳng nên trụ Cõi Phật ở Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phía, trên dưới và một Cõi Phật. Chẳng nên trụ mười phương Cõi Phật là một cõi.
Chẳng nên trụ ngồi dưới cây Bồ Đề, vì cây ấy phát ra mùi hương, khiến cho chúng sinh nghe mùi hương này đúng như hương vị của nó, thì không bị dâm, nộ, si ràng buộc, chẳng phát ý Thanh Văn, Bích Chi Phật mà đều phát tâm Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Bất kỳ chúng sinh nào nghe mùi hương này rồi thì thân, khẩu, ý đều không bệnh.
Ở Cõi Phật đó, cũng không chỗ trụ, tức không có âm thanh của sắc, không có âm thanh của thọ, tưởng, hành, thức.
Chẳng nên trụ âm thanh của thí, giới, nhẫn, tinh tấn, thiền, bát nhã Ba la mật.
Chẳng nên trụ âm thanh của bốn ý chỉ, bốn ý đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy giác ý, tám Thánh đạo, mười lực, bốn vô sở úy, bốn phân biệt biện, mười tám pháp bất cộng của Chư Phật.
Chẳng nên trụ âm thanh Niết Bàn của Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, Bích Chi Phật, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thành Đẳng Chánh Giác.
Này Câu Dực! Như trên là Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật, chẳng nên trụ vào những âm thanh vướng mắc này.
Bấy giờ Hiền Giả Xá Lợi Phất, tâm tự nghĩ: Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật như thế nào?
Ngài Tu Bồ Đề biết tâm niệm của Xá Lợi Phất, liền nói với Xá Lợi Phất: Theo ý ông thì sao?
Như Lai trụ ở chỗ nào?
Ngài Xá Lợi Phất trả lời Ngài Tu Bồ Đề: Như Lai không chỗ trụ, chẳng phải không trụ. Phật không tâm, không sắc, chẳng trụ ở sắc. Chẳng trụ thọ, tưởng, hành, thức, chẳng trụ cảnh giới hữu vi, chẳng trụ cảnh giới vô vi, chẳng trụ các tam muội không, ba mươi bảy phẩm, mười lực, vô úy, mười tám pháp bất cộng của Chư Phật, chẳng trụ trí nhất thiết.
Ngài Tu Bồ Đề khen Xá Lợi Phất: Đúng vậy, đúng vậy! Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật nên trụ như thế. Chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cũng chẳng có trụ, Đại Bồ Tát học bát nhã Ba la mật nên trụ không có chỗ trụ như thế.
Bấy giờ trong hội các Thiên Tử… đều nghĩ: Lời nói, ý nghĩ của các Duyệt xoa đều có thể hiểu rõ điều âm thanh phát ra. Nhưng lời nói của Tôn Giả Tu Bồ Đề chẳng thể hiểu được.
Tu Bồ Đề biết tâm niệm của các Thiên Tử, bảo họ: Chẳng biết ư?
Các Thiên Tử trả lời: Dạ, chẳng biết!
Khi ấy Tôn Giả Tu Bồ Đề vì các Thiên Tử phân biệt nói: Không có một loại văn tự để có thể nói, chẳng thể phân biệt, cũng không người nghe.
Vì sao?
Vì bát nhã Ba la mật không có văn tự để nói, cũng không người nghe.
Vì sao?
Vì Như Lai không văn tự.
Này các Thiên Tử! Ví dụ như Đức Như Lai hóa làm hóa nhân.
Có hóa nhân rồi, hóa làm bốn bộ chúng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di. Rồi vì bốn bộ chúng ấy nói pháp.
Theo ý các Thiên Tử thì sao?
Có người nói, có người hiểu chăng?
Trả lời: Thưa không!
Ngài Tu Bồ Đề nói: Này các Thiên Tử! Như thế tất cả các pháp cũng hóa hiện ra, không có người nói, không có người nghe. Ví như trong mộng nghe Phật nói Kinh.
Thế nào?
Có người nói, có người nghe hiểu chăng?
Đáp: Thưa không!
Ngài Tu Bồ Đề nói: Tất cả các pháp đều như mộng, không có người nói, không có người nghe, không có người biết. Ví như hai vị Thiên Tử đứng ở cửa địa ngục, khen ngợi Phật, Pháp, Tăng. Âm thanh của hai người cùng phát ra.
Thế nào?
Hai âm thanh ấy có hình thành âm thanh thứ hai chăng?
Đáp: Thưa không! Ví như nhà ảo thuật ở ngã tư đường, hóa làm Như Lai nói pháp cho bốn bộ chúng.
Thế nào?
Có người nói pháp, có người nghe hiểu chăng?
Các Thiên Tử lại nghĩ: bát nhã Ba la mật mà Tu Bồ Đề đã nói rất sâu xa, rất sâu xa, đạt đến chỗ thâm diệu!
Ngài Tu Bồ Đề biết ý nghĩ của các Thiên Tử, bảo với họ: Sắc chẳng phải chẳng sâu xa, chẳng phải vi diệu?
Thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải chẳng sâu xa, chẳng phải vi diệu?
Sắc chẳng phải chẳng tự nhiên, sâu xa, vi diệu?
Thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải chẳng tự nhiên, sâu xa, vi diệu?
Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng lại như thế.
Thí, giới, nhẫn, tinh tấn, thiền, bát nhã Ba la mật chẳng phải chẳng tự nhiên, sâu xa, vi diệu?
Pháp nội không, pháp ngoại không, pháp không gần, pháp không xa, pháp chân không, pháp sở hữu không, pháp không sở hữu không, mười lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp bất cộng của Chư Phật, tất cả các môn tam muội, môn Đà La Ni, trí nhất thiết chẳng phải chẳng phải tự nhiên, sâu xa, vi diệu?
Khi ấy các Thiên Tử nghĩ: Người nói pháp chẳng quyết định sắc, thọ, tưởng, hành, thức chăng?
Chẳng quyết định sáu pháp Ba la mật, bảy không, ba mươi bảy phẩm, mười lực, vô úy, pháp của Chư Phật chăng?
Chẳng quyết định Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, Bích Chi Phật chăng?
Ngài Tu Bồ Đề biết tâm niệm của các Thiên Tử, liền nói với họ.
Này các Thiên Tử, đúng vậy! Phật đạo không chứng đắc. Như Lai cũng chẳng thuyết pháp, cũng không có người nghe, cũng không có người hiểu. Ai muốn đắc quả chứng Tu Đà Hoàn, quả chứng Tư Đà Hàm, quả chứng A Na Hàm, A La Hán thì đừng rời trí nhẫn. Quả Bích Chi Phật cũng như vậy.
Này các Thiên Tử! Như vậy, Đại Bồ Tát sơ phát tâm trụ bát nhã Ba la mật không có nói năng, tức cũng chẳng nghe.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Quang Tán - Phẩm Ba - Phẩm Hành Không - Tập Hai
Phật Thuyết Kinh Diệu Pháp Thánh Niệm Xứ - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Hải Long Vương - Phẩm Mười Sáu - Phẩm Kim Sí điểu Chim Cánh Vàng
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội đầu - Phẩm Bốn Mươi Bảy - Phẩm Chân Như - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh Bi Hoa - Phẩm Năm - Phẩm Bố Thí Ba La Mật - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Thiên Nhãn Thiên Tý Quán Thế âm Bồ Tát đà La Ni Thần Chú - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đà La Ni Tập - Phần Mười - Kim Cang Tạng Hàng Ma Pháp