Phật Thuyết Kinh Tam Muội Ngồi Thiền - Phần Một - Pháp Môn Trị Tham Dục
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần
PHẬT THUYẾT
KINH TAM MUỘI NGỒI THIỀN
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần
PHẦN MỘT
PHÁP MÔN TRỊ THAM DỤC
Khó gặp Đạo Sư dạy
Nghe rồi vui càng khó
Ðiều Bồ Tát thích nghe
Phàm phu nghe lại chán.
Chúng sanh thật đáng thương
Rơi đường hiểm già chết
Nô lệ cho ái ân
Chốn sợ, ngu không sợ.
Thế giới lớn hoặc nhỏ
Không có pháp thường còn
Tất cả không bền chắc
Tạm hiện như điện chớp.
Thân này thuộc già chết
Chỗ các bệnh quy tụ
Da mỏng che bất tịnh
Ngu muội bị nó lừa
Ngươi thường bị giặc già
Nuốt mất tuổi thanh xuân
Như tràng hoa khô héo
Úa tàn, hết xinh tươi
Công đức Vua Ðảnh Sanh
Ngồi chung tòa Ðế Thích
Phước báo thật rộng lớn
Ngày nay có còn đâu?
Vua ấy trong Trời, người
Ðủ năm dục hơn hết
Khi chết rất khổ đau
Do đó nên tỉnh ngộ.
Các dục ban đầu vui
Về sau thành khổ lớn
Như kẻ oán, lúc đầu thân
Sau gây họa diệt tộc.
Thân là vật không sạch
Chín lỗ thường rỉ nhơ
Cũng như mụt Na lợi
Không có thuốc trị lành.
Xương như xe quá yếu
Thức chuyển, gân mạch buộc
Ngươi cho là xe tốt
Yêu chuộng không xấu hổ
Nơi chất chứa thây chết
Vất bỏ đầy gò nỗng
Khi sống thì cưng chiều
Chết rồi liền vứt bỏ.
Phải thường nghĩ như vậy
Một lòng quán, chớ loạn
Phá si, đuổi tối tăm
Cầm đuốc tuệ sáng soi
Nếu lìa bốn niệm chỉ
Ác nào tâm chẳng làm
Như voi không móc sắt
Nên chẳng chịu chăn dắt
Ngày nay làm việc này
Ngày mai làm việc nọ
Ham vui không thấy khổ
Bất chợt thần chết đến
Hối hả làm việc mình
Việc người cũng không xong
Thần chết chẳng chờ đợi
Khi đến không phương thoát.
Như nai vì khát nước
Nên tìm đến dòng suối
Thợ săn không lòng thương
Giết chết khi đang uống.
Người si cũng như vậy
Chăm lo làm các việc
Chết đến không hẹn trước
Ai sẽ giúp được ngươi?
Lòng người mong giàu sang
Năm dục lòng chưa thỏa
Các vị vua nước lớn
Ðâu thoát khỏi họa này.
Tiên Nhân giỏi chú thuật
Nào thoát khỏi tử sanh
Voi vô thường dẫm đạp
Kiến, đỉa nát với đất
Ðâu có chừa một ai.
Chư Phật chánh chân giác
Vượt ngoài dòng sanh tử
Lại cũng chẳng thường còn.
Vì vậy nên phải biết
Những điều ông yêu thích
Phải nên sớm lìa bỏ
Một lòng cầu Niết Bàn
Sau khi bỏ thân này
Ai chứng biết được ta?
Lại được gặp Pháp Bảo
Và người chẳng gặp pháp
Lâu sau Phật xuất hiện
Phá trừ hết tối tăm
Phóng ra các ánh sáng
Dạy nhân đạo, phi đạo
Ta từ chốn nào đến?
Rồi sẽ sanh về đâu?
Nơi đâu được giải thoát?
Nghi này ai rõ biết?
Phật, Đấng nhất thiết trí
Lâu lắm mới ra đời
Nhất tâm không phóng dật
Phá nghi kiết của ngươi
Ngài không thích lợi lộc
Và đắm tâm tệ ác
Ngươi hãy vì chúng sanh
Mà cầu pháp chân thật.
Ai biết được khi chết
Sẽ sanh cảnh giới nào?
Như đèn treo trước gió
Ðâu biết lúc nào tắt.
Ðến đạo pháp không khó
Ðại Thánh đã chỉ dạy
Giảng trí và trí xứ
Hai pháp không nương ngoài.
Nếu ngươi không phóng dật
Một lòng thường hành đạo
Không lâu được Niết Bàn
Vui niềm vui bậc nhất
Bậc trí gần người thiện
Hết lòng kính Phật Pháp
Nhàm chán thân nhơ nhớp
Lìa khổ, được giải thoát.
Tịnh tu nơi vắng vẻ
Ngồi kiết già trong rừng
Kiểm tâm không phóng dật
Tỉnh thức biết các duyên
Nếu chẳng chán các hữu
Ngủ mê không tự tỉnh
Không nghĩ đời vô thường
Ðáng sợ mà không sợ.
Phiền não sâu không đáy
Biển sanh tử không bờ
Thuyền vượt khổ chưa đóng
Sao an nhiên ngủ nghỉ?
Do đó phải giác ngộ
Chớ để ngủ che tâm
Ðối bốn việc dâng cúng
Biết lượng, biết vừa đủ.
Nỗi sợ lớn chưa khỏi
Phải chuyên cần tinh tấn
Các khổ khi ập đến
Hối hận không thể kịp.
Mặc y ngồi dưới cây
Như pháp mà thọ thực
Chớ vì tham vị ngon
Mà dẫn đến tự hoại.
Ăn rồi biết mùi vị
Ngon dở đồng như nhau
Ưa ngon sanh buồn khổ
Vậy chớ sanh ưa thích.
Sinh hoạt trong thế giới
Ngon dở đều nếm hết
Thọ hưởng đủ mọi thứ
Nên phải tự chế phục
Nếu sanh vào súc sanh
Nhai cỏ đủ mùi vị
Ðịa ngục nuốt hòn sắt
Sắt đốt nóng hừng hực
Trong loài quỷ Bệ Lệ
Máu mủ, phân tiểu sôi
Dải đàm, các bất tịnh
Lấy đó làm thượng vị
Hoặc ở trên Cõi Trời
Xem cung điện bảy báu
Ăn toàn vị tô đà
Thiên Nữ làm vui lòng
Trong loài người giàu sang
Các món ngon đủ vị
Ðều đã từng trải qua
Sao nay lại ưa thích?
Qua lại trong thế giới
Chán ngán việc khổ vui
Tuy chưa đắc Niết Bàn
Nhưng phải cầu lợi ấy.
Người học thiền mới đến chỗ thầy, thầy nên hỏi: Ngươi trì giới thanh tịnh chăng?
Không phạm trọng tội tà ác chăng?
Nếu đáp: Giới luật của năm chúng giữ trong sạch, không phạm trọng tội tà ác, thì sau đó mới dạy đạo pháp.
Nếu đáp: Phá giới, thì thầy nên hỏi lại: Ngươi phá giới nào?
Nếu đáp: Trọng giới, thì thầy dạy: Như người bị cắt tai, mũi, không cần phải soi gương, ngươi hãy về đi, siêng năng tụng Kinh và làm điều phước thiện, có thể gieo nhân duyên đạo pháp cho đời sau, đời này xem như đã bỏ. Giống như cây khô, dù tưới nước chăm sóc cũng không sanh hoa lá và quả được.
Nếu phá các giới khác thì khi ấy thầy nên dạy như pháp sám hối. Nếu sám hối đã thanh tịnh, như thầy đắc được thiên nhãn hoặc tha tâm trí thì theo bệnh của họ mà thuyết pháp, đưa đến chí đạo.
Bằng như chưa thông đạt thì nên xem tướng hoặc hỏi người ấy: Trong ba độc, ngươi nặng về thứ nào?
Dâm dục nhiều chăng?
Sân hận nhiều chăng?
Ngu si nhiều chăng?
Thế nào gọi là xem tướng?
Tướng người nhiều dâm dục là người mau lẹ, nhiều thê thiếp, nói nhiều và có lòng tin nhiều, nhan sắc vui vẻ, lời nói hòa nhã, dễ hiểu.
Ít sân hận, cũng ít buồn phiền, có nhiều khả năng kỹ thuật, thích học hỏi, nhiều hiểu biết, ưa thích văn chương, rất khéo biện luận, hay quán xét lòng người, có nhiều lo sợ, ở trong phòng riêng thích mặc áo mỏng, thèm muốn nữ sắc, tham đắm đồ nằm, ưa trang điểm hương hoa.
Tâm rất nhu hòa, có lòng thương người, nói lời tốt đẹp, thích làm việc phước thiện, ý ưa muốn sanh lên cõi trời, ở trong chúng không có các nạn.
Phân biệt người xấu đẹp, ưa tín nhiệm phụ nữ, lửa dục nung nấu, lòng nhiều thay đổi, hối hận, ưa tự trang sức, thích xem tranh vẽ nhiều màu.
Ðối vật của mình thì tham tiếc, lại mong cầu tài vật của người, ưa kết bạn thân, không thích ở một mình, đắm trước chỗ ở, chạy theo dòng thế tục, vừa kinh vừa sợ, chí như khỉ vượn, hiểu biết cạn cợt, làm việc lại không suy nghĩ, ý chí yếu kém, hành động theo sở thích, dở khóc dở cười.
Thân thể mềm yếu, không kham khổ lạnh nóng. Dễ mừng, dễ lo, gặp việc không thể đè nén, được ít vui nhiều, mất ít sầu lớn, tự bày ra rồi tự che dấu. Thân thể ấm, mồ hôi hôi, da mỏng, tóc mềm, mặt nhiều vết nhăn, nhiều điểm trắng, cắt móng tay, cạo râu, chà răng trắng.
Ði ra ngoài thích mặc đồ thật sạch. Học hành không chuyên cần, thích dạo vườn rừng, nhiều tình cảm, nhiều mong cầu, chấp thường kiến.
Hay gần gũi các bậc có đức, vồn vã thăm hỏi, ưa theo lời người, gượng vui, chịu nhục, nghe việc nhanh hiểu, sự việc đã làm phân biệt rõ tốt xấu. Thương người nghèo khổ, tự đại, háo thắng, chẳng chịu người lấn hiếp.
Thích làm việc bố thí, tiếp dẫn người hiền, được đồ ăn uống ngon không ăn một mình, không để ý việc nhỏ nhặt, chí để ở việc to tát. Mắt đắm sắc dục, sự nghiệp không thành, không lo xa.
Biết được phong tục tốt đẹp ở đời, quan sát nhan sắc, dò biết mặt trái lòng người, nói lời hoa mỹ, kết bạn không bền. Tóc thưa, ít ngủ nghỉ, đi đứng nằm ngồi bộ tịch đàng hoàng. Có tài vật liền đem cứu trợ, sau lại hối tiếc.
Ưa thích điều nghĩa, gấp làm cho được nhưng lại mau quên, bám chấp hành động, khó tự sửa đổi, khó lìa được dục, gây tội nhỏ nhặt…
Các loại tướng trạng như thế là tướng dâm dục.
Tướng người sân hận: Người nhiều ưu sầu, hung bạo, ôm lòng phẫn hận, thân miệng thô xẳng, nhẫn chịu các khổ, gặp việc không nhịn được, nhiều sầu, ít vui.
Có thể làm việc đại ác, không có lòng thương người, ưa tranh cãi, nhan sắc tiều tụy, mắt trợn mày nhăn, khó nói, khó vui, khó làm việc, khó thành công. Mình như ghẻ lở, lại ưa nói lỗi của người.
Lý luận cứng cỏi, không thể bẻ dẹp, khó làm lay chuyển, khó thân thiện, khó cản ngăn, ôm lòng độc khó vứt bỏ, bị trách không quên. Nhiều khả năng khéo léo, siêng năng, làm việc nhanh chóng, ôm kỳ vọng không nói, ý sâu khó biết. Thọ ân liền đáp ân.
Lại có khả năng thuyết phục được nhiều người tuân theo, không thể phá hoại. Việc làm thường được trọn vẹn, người khác khó can thiệp, không ngại khó khăn.
Giống như sư tử, rất khó khuất phục. Khi đã quyết định, theo kế hoạch hành động, không bao giờ nghĩ lại, nhớ nghĩ khó quên. Nhiều lo nghĩ tư duy, ôn tập nhớ kỹ.
Hay bố thí, chẳng màng lợi nhỏ, làm thầy rất khôn ngoan. Lìa dục, ở một mình, ít sự dâm dục, thường nghĩ đến sự thành công. Chấp trước đoạn kiến.
Mắt không ưa liếc ngó, lời nói ngay thẳng, biện minh sự việc rõ ràng, ít có bạn thân. Làm việc hay chấp chặt, nhớ dai không quên. Có nhiều sức mạnh, vai ngực nở đẹp, tráng rộng tóc bằng. Tâm cứng rắn, khó điều phục. Mau được mà khó quên. Có thể tự lìa dục, hay gây tội nặng…
Các loại tướng như vậy là tướng sân hận.
Tướng người ngu si: Người nhiều nghi ngờ, nhiều hối hận, lười biếng, không nhận thức, tự mãn, khó khuất phục, kiêu mạn, khó dạy bảo. Việc đáng tin chẳng tin, việc không đáng tin lại tin. Không biết chỗ đáng tôn kính, nơi nào cũng tin theo, có nhiều thầy.
Ðường đột, thô tháo, không biết xấu hổ, hành động không suy nghĩ, thường trái với lời dạy. Chẳng biết chọn bạn, không biết tự trang sức. Ưa thích thầy hay đạo lạ, chẳng phân biệt được tốt xấu.
Khó ghi nhớ, dễ quên, căn tánh tối tăm, biếng nhác, chê bai người bố thí, không có lòng thương xót. Phá hoại chiếc cầu chánh pháp, gặp việc mờ mịt không biết. Lúc giận tối mắt, không có trí tuệ, nhiều mong cầu hy vọng, đa nghi, ít lòng tin, ganh ghét người tốt.
Cho rằng: Không có quả báo tội phước, chẳng phân biệt được lời thiện, không biết điều lỗi, chẳng nghe lời khuyên bảo. Xa lìa người thân, oán ghét họ, không biết lễ phép, ưa nói lời ác. Móng tay, râu tóc để dài, răng áo nhơ nhớp, bị người sai khiến. Chỗ đáng sợ lại không sợ, việc vui thì lo buồn, việc lo buồn lại vui, chỗ ưu buồn lại cười cợt, chỗ vui vẻ lại ưu buồn.
Ðợi kéo mới chịu đi, hay nhẫn các khổ, không phân biệt mùi vị, khó lìa dục, gây tội sâu nặng… các loại tướng như vậy là tướng người ngu si. Nếu người nhiều dâm dục, dùng pháp quán bất tịnh để chữa trị.
Người nhiều sân hận, lấy pháp quán từ bi để chữa trị.
Người nhiều ngu si, tư duy pháp quán nhân duyên để chữa trị.
Nếu người nhiều lo nghĩ, tu pháp quán hơi thở để chữa trị.
Nếu người tham, sân, si đồng nhau, dùng pháp môn niệm Phật để chữa trị.
Như vậy, có bao nhiêu thứ bệnh thì có bấy nhiêu pháp để chữa trị.
Người nhiều dâm dục nên tu tập pháp quán bất tịnh, từ chân đến tóc toàn vật không sạch: Lông, tóc, móng, răng, da mỏng, da dày, máu, thịt, gân, mạch, xương, tủy, gan, phổi, tim, thận, lá lách, dạ dày, ruột già, ruột non, phân, nước tiểu, nước mũi, nước miếng, mồ hôi, nước mắt, cứt ráy, đất, óc, bọng đái, mật, đàm, bầy nhầy, mỡ, mỡ sa, màng óc…
Như vậy, trong thân toàn vật không sạch.
Lại quán bất tịnh theo thứ lớp: Quán thây chết máu ứ bầm xanh, sình trướng, thối rửa vỡ ra, máu mủ chảy ràng rụa, hôi thối, trùng thú ăn còn xương, phân tán, thiêu rụi.
Ðó là pháp quán bất tịnh.
Người nhiều dâm dục, yêu mến bảy thứ:
1. Yêu sắc đẹp.
2. Yêu dáng điệu đoan chánh.
3. Yêu dung mạo.
4. Yêu thích âm thanh.
5. Yêu mềm mại, trơn láng.
6. Yêu con người, chúng sanh.
7. Yêu thích tất cả.
Yêu sắc đẹp nên tu tập pháp quán thây chết bầm xanh, những màu sắc vàng đỏ bất tịnh cũng như vậy.
Nếu yêu dáng điệu đoan chánh nên tu tập pháp quán thây chết sình trương, nứt rã.
Nếu yêu mến dung mạo nên quán thây mới chết, máu chảy ràng rụa, xương cốt rục rã.
Nếu yêu thích âm thanh, nên tập pháp quán khi người sắp chết cổ họng bị nghẹt.
Nếu yêu thích trơn láng nên quán bộ xương và người bệnh khô gầy.
Nếu yêu thân người nên tập quán sáu thứ bất tịnh, trong chín thứ bất tịnh.
Nếu yêu tất cả nên tu tập toàn bộ pháp quán bất tịnh, hoặc lúc thì quán các thứ này, khi lại quán các thứ khác, đều là pháp quán bất tịnh.
Hỏi: Nếu thân bất tịnh như thây chết thối rữa, do đâu sanh lòng yêu mến?
Nếu cho thân là trong sạch thì thân dù thối lầy cũng vẫn yêu. Bằng như không yêu thân thối rửa thì thân thanh tịnh cũng không yêu.
Ðáp: Vì hai thân là một vậy. Nếu cầu hai thân thật thanh tịnh đều không thể có. Tâm người mê lầm vì điên đảo che phủ, nên thân bất tịnh cho là thanh tịnh.
Nếu phá dẹp tâm điên đảo liền được pháp quán thật tướng. Khi ấy, biết thân là bất tịnh, hư dối không thật.
Lại nữa, thây chết không còn hơi ấm. Mạng sống, thần thức và các căn đã bế tắt. Người nhận biết kỹ thì tâm không còn mến tiếc. Thân có hơi ấm, mạng sống, thần thức và các căn đầy đủ nên tâm điên đảo mê lầm, sanh say đắm.
Lại nữa, khi tâm yêu đắm sắc thân, cho đó là sạch. Tâm yêu dứt thì liền biết thân là không sạch.
Nếu thân thật sạch thì phải thường sạch, nhưng đây chẳng phải như thế. Như chó ăn phân, cho là sạch. Người thấy, cho đó là rất dơ.
Trong và ngoài thân, không một chỗ nào sạch, bằng như chấp đắm bề ngoài thân thì chẳng qua nó chỉ là một lớp da mỏng bao bọc. Nắm da cắt một miếng bằng miếng xoài thì bao thứ dơ nhớp hiện bày, huống nữa bên trong thân chứa ba mươi sáu thứ nhơ uế.
Suy cho cùng, thân là tập hợp bao thứ bất tịnh. Thân do tinh cha huyết mẹ hợp thành, lại thường chảy ra đồ bất tịnh. Y phục, giường nệm cũng dơ uế, hôi thối, huống là chỗ chứa thây chết. Vì thế nên biết, thân người dù sống hay chết, bên trong và ngoài đều là bất tịnh.
Người tu Tịnh quán có ba bậc: mới tập, đã tập, đã tập lâu.
Người mới tập nên dạy: Tưởng lột hết da, bỏ hết những thứ bất tịnh, chỉ còn bộ xương màu đỏ, tập trung vào quán tưởng, không cho khởi nghĩ gì khác. Có nghĩ khác, liền nhiếp niệm kéo về.
Nếu người đã tập nên dạy: Tưởng lột hết da thịt, quán bộ xương đầu, không nghĩ gì khác. Có nghĩ gì khác, liền nhiếp niệm kéo về.
Nếu người đã tập lâu nên dạy: Tưởng lột hết da thịt, buộc ý vào một trong năm chỗ: đỉnh đầu, trán, giữa chặn mày, chót mũi, quả tim. Buộc ý vào năm chỗ ấy, quán xương, không nghĩ gì khác. Nghĩ khác, liền nhiếp trở về. Thường quán xét tâm, nó chạy đi liền kéo trở lại. Nếu tâm mệt mỏi thì tự xả duyên ngoài, trụ ở sở duyên.
Thí như con khỉ bị cột ở trụ cây, vọt nhảy mệt rồi nằm yên bên trụ. Sở duyên như trụ cây, niệm như dây buộc, tâm dụ như con khỉ.
Lại giống như người mẹ chăm giữ con còn bú, không để nó rơi té. Hành giả quán sát tâm cũng như vậy, dần dần chế phục được tâm, bắt nó trụ một chỗ.
Nếu tâm trụ được lâu, đó là hợp pháp thiền, bằng như đắc thiền định thì hiện ba tướng: Một là thân thể nhẹ nhàng, mềm dịu, vui vẻ, xương trắng phát ra ánh sáng trắng như ngọc kha, tâm được dừng lặng. Ðó là tịnh quán. Khi ấy được tâm trong sắc giới.
Ðó là người mới học pháp thiền, được tâm sắc giới.
Tâm hợp với pháp thiền tức là pháp sắc giới. Tâm được pháp này, thân tuy ở Dục Giới nhưng tứ đại rất điều hòa, an lạc, hình sắc trong sạch, mềm dịu, tươi nhuận. Ðó là tướng vui vẻ.
Hai là hành giả nội quán tướng xương trắng phát ra ánh sáng màu trắng trong sạch, chiếu tỏa khắp.
Ba là tâm trụ một chỗ, gọi là tịnh quán. Bỏ thịt quán xương nên gọi là tịnh quán.
Ba tướng trên đều tự biết, người khác chẳng thấy biết.
Ba bậc tu tập ở trên là:
1. Bậc mới tu tập, trước chưa phát tâm.
2. Bậc đã tu hành ba bốn năm.
3. Bậc tu tập lâu khoảng một trăm năm.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba