Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Ba - Pháp Hội Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ - Phần Tám

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế

PHẬT THUYẾT

KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế  

PHÁP HỘI THỨ BA

PHÁP HỘI MẬT TÍCH KIM CANG LỰC SĨ  

PHẦN TÁM  

Tịch Ý Bồ Tát liền đứng dậy trịch vai áo phía hữu chắp tay lễ Phật, nói kệ ca ngợi để hỏi ý cười của Đức Phật:

Cao vọi như núi vàng

Diệu Quang sạch bụi trần

Tâm Phật vững vắng lặng

Như Mặt Trời trên không

Tia sáng ấy rất sáng

Tiêu trừ các tối tăm

Cớ chi hiện như vậy

Xin Thế Tôn giải bày

Sạch sẽ như hoa sen

Mọc ở trong bùn sình

Gốc cọng ở trong nước

Lớn lên không cấu nhơ

Công đức rất thơm tho

Ý niệm càng rộng xa

Chỉ nên an nhiên nói

Cớ chi lại vui cười

Tâm trí Phật an ổn

Vắng lặng và nhu hòa

Lòng từ càng thêm lớn

Tiêu trừ những cấu uế

Dùng ánh sáng trí huệ

Trừ bỏ các tối tăm

An trụ như hoa sen

Vứt bỏ các hồ nghi

Thêm thương tu Đạo Tràng

Phụng hành được tự tại

Miệng Phật phóng quang minh

Khô cạn các ái dục

Khai hóa các chúng sanh

Cho mắt họ sáng sạch

An trụ tiêu nghịch tặc

Trừ bỏ những tội lỗi

Khắp tất cả chúng hội

Chư Thiên và mọi người

Ngưỡng nhìn tướng mạo Phật.

Có chi Phật vui cười?

Đức Phật bảo Ngài Tịch Ý Bồ Tát: Ông có thấy Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ ấy chăng?

Ngài Tịch Ý Bồ Tát thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Tôi đã thấy ông ấy.

Đức Phật dạy: Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ sẽ cúng dường Chư Như Lai ở hiền kiếp, hộ trì chánh pháp, khai thị lợi ích vô lượng chúng sanh.

Từ thân ấy chết, ông ấy sẽ sanh về nước Diệu Lạc của Đức Phật A Súc. Từ đó về sau gặp vô số Chư Phật, tịnh tu phạm hạnh.

Qua khỏi số kiếp ấy, ông ấy chứa nhóm công đức sẽ thành Phật Hiệu Kim Cang Bộ Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác. Cõi nước tên Phổ Tịnh.

Kiếp hiệu Nghiêm Tịnh. Cõi nước Phổ Tịnh hiệp bảy báu làm thành, nhân dân giàu vui đông đảo như Cung Trời Đâu Suất.

Cõi nước ấy không có ba ác đạo và tám chỗ nạn, Trời và người chẳng riêng biệt, tất cả đều mộ Phật Đạo vi diệu. Cõi ấy không có hai thừa, không có tên Thanh Văn, Duyên Giác, thuần là Bồ Tát.

Đức Kim Cang Bộ Như Lai tuyên thuyết pháp đại thừa bất thối chuyển. Chúng Bồ Tát ở Cõi Phổ Tịnh đông chẳng thể tính đếm hạn lượng được. Cõi ấy không có người tánh ác ganh ghét phá giới tà kiến. Người cõi ấy mến thích Phật Pháp, tâm tánh hiền hòa, đều đủ hai mươi tám tướng tốt trang nghiêm thân thể.

Đức Kim Cang Bộ Như Lai tại thế thọ tám tiểu kiếp, thường vì chúng hội Trời người thuyết pháp, thân phóng quang minh chiếu khắp cõi nước.

Các hàng Trời người được quang minh Phật chiếu đến đều được giải quyết các điều nghi khen ngợi chánh pháp, về theo Đức Phật.

Mọi người nghĩ rằng tôi phải đến chỗ Phật để học hỏi Kinh Điển. Có người dùng thần thông của mình đi đến chỗ Phật. Có hàng hữu học nương oai thần của Phật mà đến.

Đức Phật Kim Cang Bộ ở trên hư không cách mặt đất trăm ngàn nhẫn tuyên cáo pháp âm khắp mười phương làm vui đẹp tất cả những người đến dự hội. Chỉ tuyên pháp đại thừa vô thượng đại đạo cho Chư Bồ Tát.

Cõi nước Phổ Tịnh ấy không một ai chống báng lời giáo huấn của Đức Phật.

Cõi nước ấy không có Vua chúa, chỉ có Đức Phật Thế Tôn là vị Pháp Vương.

Ở Cõi nước ấy, tất cả nhân dân đều có trí huệ, không chấp ngô ngã, không có ngã sở, chẳng làm chủ nhà ruộng riêng. Do lòng từ xót thương của Đức Phật, chiều tối người cõi nước ấy thấy đức Kim Cang Bộ Như Lai hiện thân tượng đắp y mang bát đứng trước nhà mình, liền tự nghĩ Đức Như Lai thương tôi muốn đến nhà tôi thọ trai. Đêm ấy họ sắm sửa thức ăn, trần thiết ghế bàn.

Sáng hôm sau đến giờ ngọ Trai, Đức Phật và Thánh chúng đến nhà họ thọ Trai xong, sau khi rửa tay, Đức Phật vì người nhà thí chủ mà thuyết Kinh Pháp.

Thí chủ ấy được pháp bất thối chuyển nơi đạo Vô Thượng Chánh Giác. Thuyết Kinh xong Đức Phật trở về Tinh Xá. Nếu Đức Phật ngồi yên nơi tịnh Thất, Chư Bồ Tát cõi ấy đều theo pháp tam muội của mình đã được mà tu tập.

Này Thiện Nam Tử! Cõi nước của Đức Phật Kim Cang Bộ có công đức trang nghiêm thanh tịnh thù đặc dường ấy. Lúc Đức Thế Tôn nói lời thọ ký cho Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ, trong chúng hội có hai vạn người phát tâm vô thượng bồ đề phát nguyện sanh về cõi nước ấy.

Đức Phật thọ ký rằng lúc Đức Phật Kim Cang Bộ thành đạo, trong đại chúng đây ai nguyện được thấy thì đều sẽ được sanh về cõi Phổ Tịnh ấy, và sẽ được Đức Phật ấy thọ ký vô thượng bồ đề.

Nghe Đức Phật thọ ký, Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ vui mừng hớn hở dồi chày Kim Cang đang cầm lên hư không. Liền đó khắp Cõi Đại Thiên chấn động sáu cách, ánh sáng chiếu mươi phương, hoa Trời tuôn xuống như tuyết rơi, các thứ âm nhạc tự nhiên trỗi lên.

Tay mặt của tất cả mọi người trong Pháp Hội tự nhiên có nhiều thứ hoa hương phan lọng xinh đẹp, đều cầm lấy mà đi.

Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ cầm hoa hương phan lọng đi vòng quanh Đức Phật nói kệ ca ngợi rằng:

Pháp rộng khắp tự tại

Pháp Tạng chẳng cùng tận

Thuyết Pháp rất rành rẽ

Lợi ích cho chúng sanh

Phật trao phó cho tôi

Thường thích dùng pháp khí

Phụng hành đúng chánh pháp

Nguyện tự quy Phật Đạo

Trí huệ hay thanh tịnh

Công hạnh đã sáng suốt

Danh hiệu thấu ba đời

Công đức trọn rốt ráo

Trí Phật suốt ba chỗ

Thánh đức không chấp trước

Tự tại độ chúng sanh

Giáo hóa khỏi khổ ách

Thanh tịnh như mặt nguyệt

Dung nhan rất sáng rỡ

Chiếu đến chỗ rất xa

Dường như mặt Trời sáng

Phật âm rất diệu hòa

Như tiếng Trời Phạm Thiên

Từ bi tuyên lời dạy

Kính lễ đấng chí tôn

Tự hiển hiện thân hình

Thị hiện có thọ mạng

Xin Phật tuyên pháp âm

Diễn nói các văn tự

Dầu diễn nói Kinh Pháp

Nhưng không niệm có pháp

Dầu độ khắp chung sanh

Nhưng không tưởng có nhân

Thế Tôn thương giáo hóa

Ai bảo được ơn Phật

Giả sử tất cả chúng

Chứa đức vô lượng kiếp

Chỉ thưa hỏi Phật Pháp

Chí chẳng ở nghiệp khác

Mình phụng hành Phật hạnh

Lại dạy bảo người khác.

Nhiễu Phật và chúng hội đủ bảy vòng, Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ cầm các thứ hoa và lọng báu tung lên cúng dường Đức Phật.

Vừa lúc tung hoa, khắp tứ thiên hạ tự nhiên hóa sanh bao nhiêu thứ hoa trang nghiêm tám lớp đường sá, những ao nước tám vị công đức, nương oai thần của Phật, không đâu là chẳng khắp.

Tịch Ý Bồ Tát hỏi Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ: Đức Như Lai đã thọ ký Phật Đạo cho Ngài?

Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ đáp: Ngài đã thấy Đức Phật thọ ký. Sự thọ ký ấy tự nhiên như chiêm bao.

Hỏi: Ngài được thọ ký là đến chỗ nào?

Đáp: Chỗ được thọ ký ấy là không chỗ đến.

Hỏi: Chẳng đến chỗ nào?

Đáp: Chẳng đến vô ngã, chẳng được nhân và thọ mạng, chẳng được năm ấm, sáu trần, bốn đại chủng, chẳng thấy công nghiệp độ đời hiện tại, chẳng đến các tội cùng chẳng tội, không có lậu và vô lậu, không có trần lao sân hận, không có hữu vi và vô vi, không có sanh tử và Niết Bàn, tất cả đều chẳng đến mới gọi là thọ ký.

Hỏi: Nếu không chỗ đến thì ai được thọ ký?

Đáp: Không chỗ đến ấy mới gọi là đến.

Hỏi: Nếu không ngô ngã thì ai được thọ ký?

Đáp: Người thọ ký và người được thọ ký đều bình đẳng, bổn tế không có hai, không có khác.

Hỏi: Nếu không bổn tế, thì ai được thọ ký ấy?

Đáp: Bổn tế không sanh, cũng không diệt, không có hai. Do bổn tế ấy mà ngày nay được thọ ký.

Hỏi: An trụ bổn tế nào mà được thọ ký?

Đáp: An trụ nơi tự nhiên, bổn tế không hai, bổn tế không ngã, không nhân, không thọ mạng, an trụ nơi tự nhiên mới gọi là được thọ ký.

Hỏi: Ngô ngã bổn tế an trụ chỗ nào?

Đáp: An trụ nơi Đức Như Lai an trụ.

Hỏi: Không chỗ hay biết là biết chỗ nào?

Đáp: Chỗ hay biết ấy, là không chỗ biết.

Hỏi: Nếu không chỗ bảo nói là không chỗ nói, giả sử không chỗ nói thì dạy những gì?

Đáp: Dạy không chỗ dạy.

Hỏi: Thế nào là dạy không chỗ dạy?

Đáp: Tất cả các pháp đều không chỗ dạy.

Hỏi: Giả sử không chỗ dạy thì làm sao biết đó?

Đáp: Giả sử không chỗ dạy thì chỗ biết dường ấy.

Hỏi: Thế nào là dạy chỗ biết?

Đáp: Chẳng hỏi chỗ biết.

Hỏi: Thế nào là chẳng hỏi chỗ biết?

Đáp: Tâm không phóng dật.

Hỏi: Thế nào là tâm không phóng dật?

Đáp: Tự về nơi yếu nghĩa.

Hỏi: Thế nào là tự về nơi yếu nghĩa?

Đáp: Chẳng thấy vô nghĩa.

Hỏi: Sao gọi là chẳng thấy vô nghĩa?

Đáp: Chẳng lấy nơi nghĩa cũng chẳng phải vô nghĩa mới gọi là nghĩa.

Hỏi: Sao gọi là chẳng lấy nơi nghĩa cũng chẳng phải vô nghĩa mới gọi là nghĩa?

Đáp: Chẳng lấy nơi nghĩa cũng chẳng phải vô nghĩa ấy là đạo nghĩa.

Hỏi: Nếu lấy vô nghĩa thì chẳng thành pháp nghĩa ư?

Đáp: pháp nghĩa ấy sao lại là nghĩa! Tại sao vậy?

Người xu hướng nơi nghĩa thì là phi pháp, chẳng thành là pháp.

Hỏi: Thế nào là pháp?

Đáp: Pháp không âm hưởng mới gọi là pháp.

Hỏi: Pháp không âm hưởng sao gọi là pháp?

Đáp: Nơi pháp ấy không có văn tự mới gọi là pháp. Pháp ấy không chỗ được. Pháp ấy không âm thanh, không ngôn từ.

Hỏi: Sao gọi là chỗ đến?

Đáp: Như chỗ đến được, đây mới gọi là tất cả không đến. Rời lìa nơi có được, nên gọi là tôi đến được Như Lai. Tu tập các pháp mới có thể đến được.

Có thể dứt bặt tâm vô ngã. Tất cả chỗ tuyên bày là ánh sáng của trí huệ. Nhân nơi văn tự ấy mà tuyên bày công nghiệp của Như Lai. Chẳng lấy không đến, chẳng lấy sẽ đến.

Hỏi: Chỗ đến ấy, chỗ nào chẳng được?

Đáp: Lời nói từ nơi miệng là chẳng được vậy. Lời nói từ nơi miệng, trong tâm dựa theo văn tự thì là chẳng được.

Hỏi: Thế nào gọi là được?

Đáp: Không chỗ đến ấy, không chỗ dạy ấy. Không chỗ dạy ấy, biết thì là chẳng tự chẳng biết tha. Chẳng biết tự chẳng biết tha mới gọi là được.

Hỏi: Chẳng được thì cái gì làm căn bổn nó.

Còn được thì cái gì làm căn bổn nó?

Đáp: Sở thọ là căn bổn.

Hỏi: Cái gì làm căn bổn của sở thọ?

Đáp: Chỗ dựa nhờ làm căn bổn.

Hỏi: Cái gì làm căn bổn của chỗ dựa?

Đáp: Hư ngụy vọng tưởng làm căn bổn.

Hỏi: Cái gì làm căn bổn của hư ngụy vọng tưởng?

Đáp: Trần lao làm căn bổn của hư ngụy vọng tưởng.

Hỏi: Chỗ nào làm căn bổn của hư ngụy vọng tưởng trần lao?

Đáp: Luyến trước làm căn bổn.

Hỏi: Những gì làm căn bổn của luyến trước?

Đáp: Sắc thanh hương vị xúc làm căn bổn.

Hỏi: Chỗ gì là cội gốc luyến trước?

Đáp: Ân ái kiết tập gọi là cội gốc luyến trước. Ở nơi những chỗ luyến trước ấy mà không luyến mộ thì gọi là không luyến trước.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần