Phật Thuyết Kinh Tăng Nhất A Hàm - Phẩm Bốn Mươi Tám - Phẩm Thập Bất Thiện - Phần Hai

Kinh Nguyên thủy   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:03 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Tăng Già Đề Bà, Đời Đông Tấn

PHẬT THUYẾT

KINH TĂNG NHẤT A HÀM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Tăng Già Đề Bà, Đời Đông Tấn  

PHẨM BỐN MƯƠI TÁM

PHẨM THẬP BẤT THIỆN  

PHẦN HAI  

Tôi nghe như vậy!

Một thời Phật ở nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Ðộc cùng với chúng đại Tỳ Kheo năm trăm người.

Bấy giờ, Tôn Giả A Nan trịch áo bày vai phải, quỳ gối phải chấm đất, bạch Phật: Trí nhiệm mầu của Đức Như Lai, không việc gì không biết. Trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai Ngài thảy đều biết rõ. 

Chư Phật đời quá khứ tên họ, danh hiệu, đệ tử Bồ Tát theo tùy tùng bao nhiêu, thảy đều biết hết, trong một kiếp, trăm kiếp hay vô số kiếp thảy đều quán sát biết hết, Ngài cũng biết tên họ của Vua chúa, Đại Thần, nhân dân, thảy đều có thể phân biệt. Như hiện tại nay có bao nhiêu cõi nước cũng biết rõ ràng.

Về đời tương lai xa, khi Phật Di Lặc Chí Chân Ðẳng Chánh Giác xuất hiện, con muốn nghe sự biến hóa của Đức Phật ấy, số đệ tử tùy tùng, cảnh giới Phật phồn thịnh, trải qua bao nhiêu năm?

Phật bảo A Nan: Thầy hãy về chỗ ngồi, lắng nghe ta nói. Khi Phật Di Lặc ra đời, cõi nước giàu có, bao nhiêu đệ tử. Thầy hãy khéo suy nghĩ, ghi nhớ trong tâm. Khi ấy, A Nan vâng lời Phật dạy, liền trở về chỗ ngồi.

Bấy giờ, Phật bảo A Nan: Về đời tương lai rất xa, ở cõi này sẽ có một đô thị tên Kê Ðầu, chiều Ðông Tây rộng mười hai do tuần, chiều Nam Bắc rộng bảy do tuần, đất đai phong phú, nhân dân đông đúc đầy đường. Bấy giờ, trong thành ấy có một Long Vương tên Thủy Quang, đêm rưới mưa thơm, ngày thì quang đãng.

Khi ấy, trong thành Kê Ðầu cũng có một La Sát tên Diệp Hoa, hành động đúng pháp, không trái chánh giáo, chờ mọi người ngủ xong, mới dọn dẹp các vật nhơ cấu, lại dùng nước thơm rưới trên đất, rất là thơm sạch.

A Nan nên biết!

Bấy giờ cõi Diêm Phù Đề trong khoảng Ðông Tây Nam Bắc mười vạn do tuần, các thứ núi sông, vách đá đều tự tiêu diệt, nước bốn biển lớn đều đổ về một phía.

Ðất đai cõi Diêm Phù Đề rất bằng phẳng ngay ngắn như gương sáng. Các thứ ngũ cốc trong cõi nhiều và rẻ, nhân dân đông đúc, nhiều trân bảo, làng xóm kề cận nhau, tiếng gà gáy nối tiếp.

Thời ấy, những loại cây trái dở đều khô chất, loại dơ xấu cũng tự tiêu diệt, chỉ còn những cây trái ngon ngọt đẹp đẽ, mùi hương đặc biệt đều nảy sanh ở đất ấy.

Thời tiết khí hậu điều hòa, bốn mùa thuận tiết, thân người không có trăm lẻ tám tai họa như tham dục, sân nhuế, ngu si, lười biếng… lòng người giống nhau, đều đồng một ý, gặp nhau vui vẻ nói lời lành, ngôn ngữ một thứ không sai biệt, như người ở Cõi Uất Đơn Việt.

Người cõi Diêm Phù Đề bấy giờ lớn nhỏ đều đồng một âm thanh, không có nhiều sai biệt. Thời ấy, người nam nữ, vừa muốn đại tiểu tiện, đất liền tự nhiên nứt ra, xong rồi đất lại khép vào.

Bấy giờ, cõi Diêm Phù Đề tự nhiên sanh ra lúa, không vỏ trấu, rất thơm ngon, ăn vào không bệnh khổ.

Còn những thứ vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, trân châu, hổ phách rải rắc trên mặt đất, không ai bảo nhau rằng: Người thuở trước vì những của báu này mà giết hại nhau, bị giam cầm lao ngục, khổ sở nhiều thứ. Bây giờ nó chỉ như ngói gạch, không ai lấy.

Bấy giờ, Pháp Vương xuất hiện tên Nhượng Khư, dùng chánh pháp trị dân, có đủ bảy báu.

Bảy báu là: Xe báu, voi báu, ngựa báu, ngọc báu, ngọc nữ báu, điển binh báu, đại thần thủ tạng báu. Ðó là bảy báu. Nhà Vua thống lãnh Diêm Phù Đề, không dùng dao gậy mà người tự nhiên hàng phục.

A Nan!

Lúc ấy có bốn kho châu báu lớn, kho báu thứ nhất tên Càn Đà Việt Quốc Thi La Sát, có nhiều vật châu báu lạ thường không thể tính kể.

Kho lớn thứ hai tên Di Thê La Quốc Ban Trừu cũng có nhiều trân bảo.

Kho thứ ba tên Tu Lại Thác Đại Quốc, cũng nhiều trân bảo.

Kho báu thứ tư tên Ba La Nại nhượng khư có nhiều trân bảo không thể tính kể.

Bốn kho báu lớn này tự nhiên xuất hiện, khi ấy các người giữ kho đều đến tâu Vua: Cúi xin Ðại Vương đem các vật trong kho báu bố thí cho người nghèo cùng.

Khi ấy, Vua Nhượng Khư được các kho báu này, cũng không quan tâm đến, ý không tưởng tài vật. Bấy giờ, cõi Diêm Phù Đề trên cây tự nhiên sanh y phục, mềm mại nhu nhuyễn, người đến lấy mặc, như người cõi Uất Đơn Việt hiện nay, trên cây tự nhiên có y phục.

Nhà Vua có một Đại Thần tên Tu Phạm Ma, là bạn từ thuở bé của Nhà Vua, Nhà Vua rất thương kính. Dung mạo của Đại Thần đoan chánh, không cao không thấp, không mập không ốm, không trắng không đen, không già không trẻ.

Ðại Thần Tu Phạm Ma có Phu Nhân tên Phạm Ma Việt, đặc biệt hơn hẳn các ngọc nữ, như cung phi Trời Ðế Thích, miệng phát ra mùi thơm hoa Ưu Bát, thân có mùi thơm Chiên Đàn, hoàn toàn không có tám mươi bốn trạng thái của người nữ, cũng không bệnh, ý không tán loạn.

Bấy giờ, Bồ Tát Di Lặc ở cung Trời Ðâu Suất quan sát cha mẹ không trẻ không già, liền giáng thần Hạ Sanh từ hông bên phải, như ta hiện nay sanh từ hông bên phải, Bồ Tát Di Lặc cũng thế.

Chư Thiên Cõi Trời Ðâu Suất đều xướng rằng: Bồ Tát Di Lặc đã Hạ Sanh. Khi đó, đại thần Tu Phạm Ma bèn đặt tên con là Di Lặc. Công Tử có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm thân hình, thân màu hoàng kim.

Thời bấy giờ nhân dân thọ mạng dài lâu, không bệnh, đều thọ tám vạn bốn ngàn tuổi. Con gái đến năm trăm tuổi mới lấy chồng.

Bồ Tát Di Lặc ở nhà không bao lâu, bèn xuất gia học đạo, lúc đó cách thành Kê Ðầu không xa, có một cội đạo thọ tên Long Hoa, cao một do tuần, rộng năm trăm bộ.

Bồ Tát Di Lặc ngồi dưới cội cây ấy thành đạo quả vô thượng. Vào nửa đêm ấy, Di Lặc xuất gia, ngay đêm đó thành đạo Vô Thượng.

Khi ấy, ba ngàn Đại Thiên cõi nước rung động sáu cách, Địa Thần mỗi bảo nhau rằng:

Nay Bồ Tát Di Lặc đã thành Phật, truyền đến cung Trời Tứ Thiên Vương nghe: Di Lặc đã thành Phật Đạo, truyền dần đến Trời Ba Mươi Ba, Trời Diêm Ma, Trời Ðâu Suất, Trời Hóa Tự Tại, Trời Tha Hóa Tự Tại, tiếng vang lần lượt đến tam Thiên Đại Thiên: Di Lặc đã thành Phật. Bấy giờ, Ma Vương tên Ðại Tướng dùng pháp trị hóa nghe danh Như Lai, âm thanh giáo hóa, vui mừng phấn khởi không thể tự dừng, bảy ngày bảy đêm không ngủ nghỉ.

Khi ấy, Ma Vương đem vô số Chư Thiên Cõi Dục, đến chỗ Phật Di Lặc cung kính lễ bái.

Ðức Phật Di Lặc vì Chư Thiên dần dần nói pháp vi diệu, những luận như luận bố thí, luận trì giới, luận sanh Thiên, dục tưởng bất tịnh, xuất yếu là nhiệm mầu.

Phật Di Lặc thấy mọi người đã phát tâm hoan hỷ, Ngài liền đem những pháp mà Chư Phật thường nói như: Khổ, tập, diệt, đạo vì hàng Trời, người rộng phân biệt nghĩa ấy. Bấy giờ có tám vạn bốn ngàn Thiên Tử, ngay chỗ ngồi dứt sạch trần cấu, được pháp nhãn tịnh.

Ma Vương Ðại Tướng bảo mọi người trong cõi nước ấy rằng: Các người mau xuất gia.

Vì sao?

Nay Đức Phật Di Lặc đã qua bờ kia, cũng sẽ đưa các người sang bờ kia. Bấy giờ trong thành Kê Ðầu có Trưởng Giả tên Thiện Tài, nghe giáo lệnh của Ma Vương, và nghe âm thanh Phật, bèn đem tám vạn bốn ngàn người đến chỗ Phật Di Lặc, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một bên.

Phật Di Lặc dần dần vì nói pháp vi diệu. Ðó là luận về bố thí, luận trì giới, luận sanh Thiên, dụng tưởng bất tịnh, xuất yếu là nhiệm mầu.

Bấy giờ, Phật Di Lặc thấy mọi người đã khai mở tâm ý, bèn đem các pháp Chư Phật thường nói như: Khổ, tập, diệt, đạo vì mọi người giảng rộng nghĩa ấy. Tám vạn bốn ngàn người đến chỗ ngồi sạch hết trần cấu được pháp nhãn tịnh.

Khi ấy, Thiện Tài cùng tám vạn bốn ngàn người liền đến trước bạch Phật, cầu xin xuất gia, khéo tu phạm hạnh, đều thành A La Hán.

Bấy giờ, hội thứ nhất của Phật Di Lặc có tám vạn bốn ngàn A La Hán. Khi ấy, Vua Nhượng Khư nghe Bồ Tát Di Lặc đã thành Phật, bèn đến chỗ Phật muốn được nghe pháp.

Thời Phật Di Lặc vì Vua nói pháp, phần đầu lành, phần giữa lành, phần sau đều lành, nghĩa lý sâu xa. Lại thời khác, Vua lập thái tử, tặng châu báu cho người thợ cạo, lại đem tạp bảo cho các Phạm Chí, dẫn tám vạn bốn nghìn người đến chỗ Phật, xin làm Sa Môn, đều thành đạo quả, chứng A La Hán.

Khi ấy, Trưởng Giả Tu Phạm Ma nghe Di Lặc đã thành Phật, đem tám vạn bốn nghìn chúng Phạm Chí, đến chỗ Phật xin làm Sa Môn, đều đắc quả A La Hán, chỉ trừ một mình Tu phạm ma, đoạn ba kết sử, chấm dứt mé khổ.

Khi ấy, Phật Mẫu PhạmMa Việt, lại đem tám vạn bốn ngàn thể nữ đến chỗ Phật, xin làm Sa Môn. Khi ấy, các người nữ đều đắc quả A La Hán, chỉ một mình Phạm Ma Việt, đoạn ba kiết sử thành Tu Đà Hoàn.

Bấy giờ, các Phu Nhân dòng Sát Lợi, nghe Phật Di Lặc xuất hiện thế gian, thành Ðẳng Chánh Giác, vài ngàn vạn chúng đến chỗ Phật, cúi đầu lễ chân Phật, lui ngồi một bên, mỗi mỗi phát tâm cầu làm Sa Môn, xuất gia học đạo, hoặc có người vượt thứ lớp mà chứng đạo, hoặc có người không chứng.

A Nan!

Bấy giờ những người không vượt thứ lớp chứng đạo đều là người vâng theo pháp, chán ghét tất cả tưởng không vui ở thế gian, khi ấy Phật Di Lặc sẽ nói giáo lý Tam Thừa.

Như nay, trong hàng đệ tử ta, Ðại Ca Diếp thực hành mười hai hạnh Đầu Đà, ở nơi Chư Phật quá khứ khéo tu phạm hạnh, và sẽ thường phụ tá Phật Di Lặc giáo hóa nhân dân.

Bấy giờ, Tôn Giả Ca Diếp cách chỗ Phật không xa, ngồi kiết già chánh thân, chánh ý buộc niệm ở trước.

Phật bảo Tôn Giả Ca Diếp: Nay ta tuổi đã già suy, hơn tám mươi. Song Như Lai có bốn đệ tử Thanh Văn lớn có khả năng du hóa, trí tuệ vô tận, đầy đủ các đức.

Những ai là bốn?

Ðó là Tỳ Kheo Ðại Ca Diếp, Tỳ Kheo Quân đồ bát hán, Tỳ Kheo Tân Đầu Lư, Tỳ Kheo La Vân.

Bốn Thanh Văn lớn các thầy! Không nên nhập Niết Bàn, đợi pháp ta mất hẳn, sau mới vào Niết Bàn. Ðại Ca Diếp cũng không nên vào Niết Bàn, nên đợi đến Di Lặc ra đời.

Vì sao?

Ðệ tử do Phật Di Lặc hóa độ đều là đệ tử của Phật Thích Ca Văn, do ta hóa độ để lại, được sạch hữu lậu. Tại nước Ma Kiệt, thôn Tỳ đề, Ðại Ca Diếp sẽ trụ trong núi xứ ấy đến lúc Phật Di Lặc đem vô số ngàn chúng vây quanh trước sau đến trong núi này.

Nương ân Đức Phật, các Quỷ Thần vì Phật mở cửa, khiến thấy được Ca Diếp Tọa Thiền trong động.

Khi ấy, Phật Di Lặc đưa tay mặt chỉ vào Ca Diếp, bảo với mọi người: Ðây là đệ tử của Phật Thích Ca từ quá khứ lâu xa, tên là Ca Diếp. Hiện tại, tu hạnh Đầu Đà đệ nhất. Mọi người thấy rồi khen chưa từng có, vô số trăm ngàn chúng sanh chấm dứt các trần cấu, được pháp nhãn tịnh. Hoặc lại có chúng sanh đã thấy thân Ca Diếp rồi.

Ðây gọi là hội ban đầu, chín mươi sáu ức người đều đắc quả A La Hán, những người ấy đều là đệ tử của ta.

Vì sao?

Vì thảy đều do nhận lãnh sự giáo hóa của ta mà nên. Cũng do nhân duyên bốn món cúng dường, bố thí, nhân ái, lợi người, lợi đồng nhau.

A Nan! Bấy giờ Phật Di Lặc sẽ đắp y Tăng Già Lê của Ca Diếp, khi đó thân thể của Ca Diếp nghiễm nhiên tan rã, Di Lặc lại đem các thứ hương hoa cúng dường Ca Diếp.

Vì sao?

Vì Chư Phật Thế Tôn đều có tâm cung kính đối với chánh pháp, Di Lặc cũng do chánh pháp hóa mà ta nhận được, được thành đạo Vô Thượng Chánh Chân.

A Nan nên biết!

Hội thứ hai của Phật Di Lặc có chín mươi bốn ức người, đều là bậc A La Hán, cũng là đệ tử của ta để lại, cúng dường bốn thứ cần dùng mà được như thế.

Hội thứ ba của Di Lặc có chín mươi hai ức người, là bậc A La Hán, cũng là đệ tử thọ pháp ta để lại. Bấy giờ danh xưng của Tỳ Kheo đều gọi là đệ tử Từ Thị, như ta ngày nay, hàng Thanh Văn đều xưng là đệ tử Thích Ca.

Bấy giờ, Phật Di Lặc vì các đệ tử Thuyết Pháp: Tỳ Kheo các thầy nên suy nghĩ về tưởng vô thường, tưởng vui có khổ, tưởng chấp có ngã và vô ngã, tưởng thật có, rổng không, tưởng sắc biến đổi, tưởng bầm xanh, tưởng sình trương, tưởng ăn không tiêu, tưởng ứ máu, tưởng tất cả đều không vui của thế gian.

Vì sao?

Tỳ Kheo nên biết, mười tưởng này đều là do Phật Thích Ca Văn từ quá khứ đã nói cho các thầy, khiến dứt sạch hữu lậu tâm được giải thoát.

Hoặc trong chúng này có đệ tử của Phật Thích Ca thời quá khứ từng tu phạm hạnh, mà đến chỗ ta.

Hoặc ở nơi Phật Thích Ca vâng giữ pháp ấy, mà đến chỗ ta.

Hoặc ở nơi Phật Thích Ca cúng dường Tam Bảo mà đến chỗ ta.

Hoặc ở nơi Phật Thích Ca tu căn lành trong khoảng khảy móng tay mà đến chỗ ta.

Hoặc ở nơi Phật Thích Ca tu tứ vô lượng tâm, mà đến chỗ ta.

Hoặc ở nơi Phật Thích Ca thọ giữ năm giới, tam tự quy y mà đến chỗ ta.

Hoặc ở nơi Phật Thích Ca tạo dựng Tháp Miếu, Chùa viện mà đến chỗ ta.

Hoặc ở nơi Phật Thích Ca sửa sang Chùa cũ mà đến chỗ ta.

Hoặc ở nơi Phật Thích Ca thọ giới Bát Quan Trai mà đến chỗ ta.

Hoặc ở nơi Phật Thích Ca dùng hương hoa cúng đường mà đến đây.

Hoặc ở nơi Phật kia, nghe Phật Pháp buồn khóc rơi lệ mà đến chỗ ta.

Hoặc ở nơi Phật Thích Ca một lòng nghe pháp mà đến chỗ ta.

Hoặc suốt đời khéo tu phạm hạnh mà đến chỗ ta.

Hoặc đã viết Kinh, đọc tụng mà đến chỗ ta.

Hoặc đã thừa sự cúng dường mà đến chỗ ta.

Khi ấy, Phật Di Lặc bèn nói kệ này:

Tăng trưởng giới, văn, đức.

Thiền và nghiệp tư duy,

Khéo tu về phạm hạnh,

Mà đến chỗ của ta.

Siêng, thí tâm hoan hỷ,

Tu hành, cội nguồn tâm,

Ý không tưởng nhiều việc,

Ðều đến chỗ của ta.

Hoặc đến chỗ của ta.

Hoặc phát tâm bình đẳng,

Thừa sự nơi Chư Phật,

Cúng thức ăn Thánh Chúng,

Ðều đến chỗ của ta.

Hoặc tụng giới, Khế Kinh,

Khéo tập, nói cho người,

Mạnh mẽ nơi gốc pháp,

Nay đến chỗ của ta.

Dòng Thích khéo giáo hóa,

Cúng dường các Xá Lợi,

Thừa sự pháp cúng dường,

Nay đến chỗ của ta.

Nếu có biên chép Kinh,

Tuyên đọc trên án thư,

Có người cúng dường Kinh,

Ðều đến chỗ của ta.

Lụa, vải và các thứ,

Cúng dường nơi Chùa Tháp,

Tự xưng: Nam Mô Phật,

Ðều đến chỗ của ta.

Cúng dường Phật hiện tại,

Và Chư Phật quá khứ,

Thiền định rất chân chánh,

Cũng không có tăng giảm.

Cho nên nơi Phật Pháp,

Thừa sự nơi Thánh Chúng,

Một lòng thờ Tam Bảo,

Ðều đến chỗ vô vi.

A Nan, nên biết! Di Lặc Như Lai nói kệ này trong chúng kia. Bấy giờ trong chúng, hàng Trời, người suy nghĩ mười tưởng này, mười một vạn vạn người sạch hết các trần cấu, được pháp nhãn tịnh. Thời Đức Phật Di Lặc, trong một ngàn năm, Chúng Tăng không có lỗi.

Bấy giờ Phật ấy thường dùng một bài kệ làm giới cấm:

Miệng, ý không làm ác,

Thân cũng chẳng phạm ác,

Nên trừ ba hạnh này,

Chóng thoát vực sanh tử.

Sau một ngàn năm, có người phạm giới Phật ấy bèn lập giới cấm. Phật Di Lặc sẽ thọ tám vạn bốn ngàn tuổi, sau khi Phật nhập Niết Bàn, pháp để lại tồn tại tám vạn bốn nghìn năm.

Vì sao?

Vì chúng sanh thời bấy giờ đều là lợi căn.

Có Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân nào muốn được gặp Phật Di Lặc và ba hội chúng Thanh Văn, cùng thành Kê Ðầu, Vua Nhượng Khư, và bốn kho châu báu lớn, muốn ăn lúa thóc tự nhiên và mặc y phục tự nhiên, sau khi chết sanh Cõi Trời thì Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân ấy nên gắng sức tinh tấn.

Đừng sanh giải đãi, cũng nên cúng dường thừa sự các Pháp Sư, cúng dường các thứ danh hoa, hương thơm đừng để thiếu thốn.

Như thế, A Nan, nên học điều này!

Bấy giờ, A Nan và đại chúng nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Sáu

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Năm

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Bốn

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Ba

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Hai

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Một

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường