Phật Thuyết Kinh Tăng Nhất A Hàm - Phẩm Hai Mươi Ba - Phẩm địa Chủ - Phần Hai

Kinh Nguyên thủy   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:03 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Tăng Già Đề Bà, Đời Đông Tấn

PHẬT THUYẾT

KINH TĂNG NHẤT A HÀM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Tăng Già Đề Bà, Đời Đông Tấn  

PHẨM HAI MƯƠI BA

PHẨM ĐỊA CHỦ  

PHẦN HAI  

Tôi nghe như vậy!

Một thời Phật ở nước Chiêm Bà bên bờ hồ Lôi Thanh. Bấy giờ Tôn Giả Nhị Thập Ức Nhĩ Sô Na ở trong chỗ vắng, tự tu pháp bổn, chẳng bỏ hai mươi pháp hạnh đầu đà, ngày đêm kinh hành chẳng lìa lời dạy về ba mươi bảy đạo phẩm, hoặc ngồi, hoặc đi thường tu chánh pháp.

Ðầu đêm, giữa đêm, cuối đêm hằng tự gắng gỏi, chẳng bỏ trong chốc lát, nhưng lại không thể ở pháp dục lậu, tâm được giải thoát.

Tôn Giả Sô Na đi kinh hành bị đứt chân chảy máu đầy khắp lề đường, giống như chỗ mổ trâu, quạ diều hâu đến hút máu, mà lại chẳng thể đối với dục lậu mà tâm được giải thoát.

Tôn Giả Sô Na liền nghĩ: Trong đệ tử tinh tấn khổ hạnh của Phật Thích Ca Văn, ta là đệ nhất. Nhưng hôm nay, ta tâm lậu chẳng được giải thoát. Lại nữa, gia nghiệp của ta nhiều tiền lắm của, đáng nên xả bỏ pháp phục trở về làm cư sĩ, đem tài vật rộng bố thí. Nay làm Sa Môn rất khó, chẳng phải dễ dàng.

Bấy giờ Thế Tôn từ xa biết tâm niệm của Sô Na, liền bay lên hư không, đến chỗ ông ta kinh hành, trải tòa mà ngồi. Khi ấy Tôn Giả Sô Na đến chỗ Phật cúi lạy rồi ngồi một bên.

Thế Tôn hỏi Sô Na rằng:

Vừa rồi cớ sao thầy lại nghĩ: Trong số đệ tử tinh tấn khổ hạnh của Phật Thích Ca Văn, ta là đệ nhất. Nhưng hôm nay ta lậu tâm chẳng được giải thoát.

Lại gia nghiệp ta lắm tiền nhiều báu, nên xả bỏ pháp phục, trở về làm cư sĩ, lấy tài vật rộng bố thí, nay làm Sa Môn thật khó, chẳng phải dễ dàng?

Sô Na đáp: Ðúng vậy, bạch Thế Tôn!

Thế Tôn bảo: Nay ta lại hỏi thầy, thầy tùy đó mà đáp lời ta.

Thế nào Sô Na?

Xưa lúc thầy ở nhà, đánh đàn có giỏi không?

Sô Na đáp: Ðúng vậy, Thế Tôn!

Xưa lúc ở nhà, con đành đàn rành.

Thế Tôn bảo: Thế nào Sô Na!

Nếu dây đàn quá căng thì tiếng chẳng đều.

Lúc đó tiếng đàn nghe có hay không?

Sô Na đáp: Bạch Thế Tôn, không!

Thế Tôn bảo: Thế nào Sô Na?

Nếu dây đàn lại chùng, thì tiếng đàn nghe có hay chăng?

Sô Na đáp: Bạch Thế Tôn, không.

Thế Tôn bảo: Thế nào Sô Na?

Nếu dây đàn không căng, không chùng thì bấy giờ tiếng đàn nghe có hay không?

Sô Na đáp: Ðúng vậy, Thế Tôn!

Nếu dây đàn không chùng cũng không căng, bấy giờ tiếng đàn có thể nghe hay.

Thế Tôn bảo: Ðây cũng như thế. Người quá tinh tấn giống như điều hý trạo cử. Nếu người giải đãi, người này sẽ đọa vào tà kiến. Nếu người có thể ở giữa hai điều này thì đây là thượng hạnh, như thế chẳng bao lâu sẽ thành bậc vô lậu. Thế Tôn thuyết pháp vi diệu cho Tỳ Kheo Sô Na xong, trở về bên bờ hồ Lôi Âm.

Khi ấy, Tôn Giả Sô Na tư duy lời dạy của Thế Tôn, ở chỗ vắng vẻ tu hành pháp này không hở một giây. Sở dĩ người dòng dõi vọng tộc, xuất gia học đạo, cạo bỏ râu tóc, tu phạm hạnh vô thượng, sanh tử đã dứt, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không thọ thân sau nữa, như thật mà biết. Tôn Giả Sô Na liền thành A La Hán.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Trong hàng Thanh Văn của ta, đệ tử tinh cần, khổ hạnh đệ nhất là Tỳ Kheo Sô Na. Bấy giờ các Tỳ Kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

Tôi nghe như vậy!

Một thời Phật ở nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Ðộc. Bấy giờ trong thành Xá Vệ, có trưởng giả Bà Đề mắc bệnh rồi chết, nhưng trưởng giả ấy chẳng có con cái, nên bao nhiêu tài sản đều nhập vào cung hết. Bấy giờ Vua Ba Tư Nặc thân dính bụi đất đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồi ngồi một bên.

Khi ấy Thế Tôn hỏi Vua: Đại Vương!

Cớ sao bụi đất đầy người mà đến chỗ ta?

Vua Ba Tư Nặc bạch Thế Tôn: Trong thành Xá Vệ này có trưởng giả tên là Bà Ðề, hôm nay mạng chung, ông ta không có con, nên con đích thân đến tịch thu tài sản sai nhập vào cung tám vạn cân vàng ròng, huống là các vật linh tinh khác. Nhưng trưởng giả đó ngày còn sống ăn những thức ăn hết sức dở tệ như thế, không ăn món ngon lành, mặc y phục bẩn thỉu chẳng sạch, cỡi xe ngựa hết sức ốm.

Thế Tôn bảo: Ðúng vậy, Đại Vương! Như lời Vua nói. Phàm người tham lam keo kiệt, được tài sản này chẳng thể ăn uống, chẳng cho cha mẹ, vợ con, đầy tớ, nô tỳ. Cũng lại chẳng cho bạn bè, trí thức. Cũng lại chẳng cho Sa Môn, Bà La Môn, các bậc Tôn Trưởng.

Nếu người có trí được tài bảo này, liền có thể bố thí, cứu giúp rộng rãi tất cả không có lẫn tiếc, cung cấp Sa Môn, Bà La Môn, các bậc cao đức.

Vua Ba Tư Nặc nói: Trưởng giả Bà Đề này mạng chung sanh về nơi nào?

Thế Tôn bảo: Trưởng giả Bà Đề này mạng chung sanh vào đại địa ngục thế khốc khóc lóc.

Vì sao thế?

Ðây là người đã đoạn gốc lành, thân hoại mạng chung sanh trong địa ngục thế khốc.

Vua Ba Tư Nặc nói: Trưởng giả Bà Đề dứt gốc lành ư?

Thế Tôn bảo: Ðúng vậy, Đại Vương! Như lời Vua nói, trưởng giả đó dứt hẳn gốc lành. Mà trưởng giả đó phước cũ đã hết, lại chẳng tạo phước mới.

Vua Ba Tư Nặc nói: Trưởng giả đó không còn sót lại chút phước nào sao?

Thế Tôn bảo: Không, Đại Vương! Ông ta không còn lại một mảy may nào, như người làm ruộng chỉ thu hoạch mà chẳng trồng sau bị cùng khốn dần dần đến chết.

Vì sao thế?

Ông ta chỉ hưởng nghiệp cũ không tạo cái mới. Trưởng giả này, cũng lại như thế, chỉ hưởng phước cũ không tạo thêm phước mới. Trưởng giả này đêm nay sẽ ở trong địa ngục thế khốc.

Bấy giờ Vua Ba Tư Nặc kinh sợ, gạt lệ mà thưa: Trưởng giả này ngày xưa làm công đức phước nghiệp gì mà sanh trong nhà giàu?

Lại tạo căn bản bất thiện nào mà chẳng được hưởng của cải cực phú này, chẳng ưa trong ngũ dục lạc?

Thế Tôn bảo Vua Ba Tư Nặc rằng: Quá khứ lâu xa, vào thời Phật Ca Diếp, vị trưởng giả này ở trong thành Xá Vệ là con nhà làm ruộng. Khi ấy, Phật đã nhập diệt rồi, có Bích Chi Phật ra đời, đến nhà trưởng giả này.

Bấy giờ trưởng giả này thấy Phật Bích Chi ở ngoài cửa, thấy rồi liền nghĩ: Như Tôn Giả này ra đời rất khó. Nay ta nên đem thức ăn uống bố thí cho người này. Bấy giờ trưởng giả liền bố thí cho Phật Bích Chi kia thức ăn. Phật Bích Chi thọ thực xong liền bay lên hư không mà đi.

Vị trưởng giả kia thấy Phật Bích Chi vận thần túc, liền thệ nguyện rằng: Nguyện đem gốc lành này, khiến đời đời, chỗ sanh không đọa trong ba đường ác, thường có nhiều tài bảo.

Sau đó ông ta lại hối hận: Thức ăn vừa rồi đáng lẽ cho tôi tớ, chẳng nên cho Đạo Nhân trọc đầu này ăn. Bấy giờ trưởng giả nhà nông nọ há là người nào khác, chớ có xem như thế.

Vì cớ sao?

Trưởng giả nhà nông bấy giờ nay là trưởng giả Ba Ðề này.

Khi ấy bố thí xong phát lời thệ nguyện này: Trì công đức này, chỗ sanh sẽ không đọa ba đường ác, thường được lắm tiền nhiều của, sanh trong nhà phú quý, không thiếu thốn gì cả.

Ðã bố thí rồi, sau lại hối hận: Ta thà cho tôi tớ ăn, chẳng nên cho Đạo Nhân trọc đầu này ăn. Do nhân duyên đầu đuôi như thế, chẳng được hưởng của giàu có này, cũng chẳng được vui trong ngũ dục. Chẳng nuôi nấng chính mình cũng chẳng cho cha mẹ, anh em, vợ con, đầy tớ, bạn bè, tri thức.

Chẳng cho Sa Môn, Bà La Môn, các bậc Tôn Trưởng. Ông ta chỉ hưởng nghiệp cũ, chẳng tạo cái mới. Thế nên Đại Vương, nếu có người trí, được tài sản này, nên rộng bố thí, chớ có tiếc lẫn, lại sẽ được tài sản vô cùng. Như thế, Đại Vương, nên học điều này.

Vua Ba Tư Nặc bạch Thế Tôn: Từ nay về sau con sẽ rộng bố thí cho Sa Môn, Bà La Môn, bốn bộ chúng. Còn các người ngoại đạo dị học tới xin, con sẽ không chịu cho.

Thế Tôn bảo: Đại Vương! Chớ nghĩ thế. 

Vì cớ sao?

Tất cả chúng sanh đều do ăn mà sống còn, không có ăn liền chết.

Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ:

Nhớ nên rộng bố thí,

Trọn chớ đoạn tâm thí,

Tất sẽ gặp Hiền Thánh,

Ðộ nguồn sanh tử này.

Vua Ba Tư Nặc bạch Thế Tôn: Nay con càng thêm hoan hỷ hướng về Như Lai.

Vì sao thế?

Tất cả chúng sanh đều do ăn mà được tồn tại, không ăn thì chẳng còn.

Vua Ba Tư Nặc nói: Từ nay về sau, con sẽ rộng bố thí không có lẫn tiếc. Khi ấy Thế Tôn thuyết pháp vi diệu cho Vua. Vua liền từ chỗ ngồi đứng lên cúi lạy rồi lui đi. Bấy giờ Vua Ba Tư Nặc nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

Tôi nghe như vậy!

Một thời Phật ở nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Tôn Giả A Nan ở chỗ vắng vẻ, liền nghĩ rằng: Ở thế gian, có loại hương nào vừa bay ngược gió, vừa bay thuận gió, vừa bay cả thuận gió, ngược gió chăng?

Tôn Giả A Nan liền từ chỗ ngồi đứng lên đến chỗ Thế Tôn cúi lạy rồi ngồi một bên.

Tôn Giả A Nan bạch Thế Tôn:

Con ở chỗ vắng vẻ chợt nghĩ rằng: Thế gian có mùi hương nào vừa bay ngược gió, vừa bay thuận gió, vừa bay cả thuận gió, ngược gió chăng?

Thế Tôn bảo A Nan: Có loại diệu hương này mà mùi thơm cũng bay ngược gió, cũng bay thuận gió, cũng bay cả trong gió thuận và ngược.

A Nan bạch Thế Tôn: Ðấy là mùi hương nào mà hương cũng bay ngược gió, cũng bay thuận gió, cũng bay cả trong gió thuận và ngược?

Thế Tôn bảo: Có hương này mà sức của mùi thơm cũng bay ngược gió, cũng bay thuận gió, cũng bay cả trong gió thuận và ngược.

A Nan bạch Phật: Ðây là hương nào, cũng thơm ngược gió, cũng thơm thuận gió, cũng thơm cả trong gió thuận và ngược?

Thế Tôn bảo: Ba loại hương này cũng bay ngược gió, cũng bay thuận gió, cũng bay cả trong gió thuận và ngược.

A Nan bạch Thế Tôn: Ba loại nào?

Thế Tôn bảo: Giới hương, văn hương và thí hương.

Ðó là, này A Nan!

Có loại hương này mà lại bay ngược gió, cũng bay thuận gió, cũng bay ngược gió thuận gió. Các mùi hương có trên thế gian, thì ba loại hương này tối thắng, tối thượng, không gì bằng, không gì bì kịp. Ví như do bò có sữa, do sữa có lạc, do lạc có tô, do tô có đề hồ, mà đề hồ này tối thắng, tối thượng, không gì bằng, không gì sánh kịp.

Ðây cũng như thế, các mùi hương có trong thế gian, ba loại này tối thắng, tối thượng không thể bì kịp.

Thế Tôn liền nói kệ:

Mộc mật và Chiên Đàn,

Ưu bát và các hương,

Và các thứ mùi hương,

Giới hương là hơn hết.

Giới này làm thành tựu,

Vô dục, không chỗ nhiễm,

Ðẳng trí mà giải thoát,

Chỗ đi mà chẳng hay.

Hương này tuy là diệu,

Và các hương đàn, mật,

Hương giới là vi diệu,

Mười phương thảy đều nghe.

Chiên đàn tuy có hương,

Ưu Bát và hương khác,

Trong các thứ hương này,

Văn hương tối đệ nhất.

Chiên Đàn tuy có hương,

Ưu bát và hương khác,

Trong các thứ hương này,

Thí hương tối đệ nhất.

Ðó là ba loại hương này cũng thơm ngược gió, cũng thơm thuận gió, cũng thơm cả thuận gió ngược gió. Thế nên, A Nan, nên cầu phương tiện thành tựu ba loại hương này.

Như vậy, A Nan, nên học điều này. Bấy giờ A Nan nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

Tôi nghe như vậy!

Một thời Phật ở thành La Duyệt tại Vườn Trúc Ca Lan Đà, cùng với năm trăm đại chúng Tỳ Kheo. Bấy giờ Thế Tôn đến giờ, đắp y ôm bát vào thành La Duyệt khất thực.

Lúc đó, Ðề Bà Đạt Đa cũng vào thành khất thực. Ðề Bà Đạt Đa đi vào trong ngõ xóm, Phật cũng đến chỗ đó. Nhưng Phật từ xa trông thấy Ðề Bà Đạt Đa đến liền muốn thối lui mà đi.

Khi ấy A Nan bạch Phật: Cớ sao muốn xa lìa xóm này?

Thế Tôn bảo: Nay Ðề Bà Đạt Đa ở xóm này, nên ta tránh đi.

A Nan bạch Phật: Thế Tôn! Há sợ Ðề Bà Đạt Đa sao?

Thế Tôn bảo: Ta chẳng sợ Ðề Bà Đạt Đa, nhưng kẻ ác này chẳng nên gặp gỡ.

A Nan thưa: Nhưng, bạch Thế Tôn! Có thể khiến cho Ðề Bà Đạt Đa này tới phương khác.

Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ này:

Ta trọn không tâm này,

Khiến Ðề Bà ra đi,

Rồi sẽ tự tạo hạnh

Và tự ở chỗ khác.

A Nan bạch Phật: Nhưng Ðề Bà Đạt Đa có lỗi với Thế Tôn.

Thế Tôn bảo: Người ngu hoặc chẳng nên gặp gỡ.

Bấy giờ Thế Tôn nhìn A Nan mà nói kệ:

Chẳng nên thấy người ngu,

Chớ cùng ngu làm việc,

Cũng chớ nói năng cùng,

Nói những việc thị phi.

Khi ấy, A Nan lại dùng kệ đáp Thế Tôn:

Người ngu làm gì được?

Người ngu có lỗi gì?

Ngay cho cùng nói chuyện,

Lại có những lỗi nào?

Thế Tôn lại dùng kệ đáp A Nan:

Người ngu tự tạo hạnh,

Chỗ làm là phi pháp,

Chánh kiến trái luật thường,

Tà kiến ngày càng thêm.

Thế nên, A Nan, chớ cùng ác tri thức tùng sự.

Vì cớ sao?

Cùng ác tri thức tùng sự thì không tín, không giới, không văn, không trí. Cùng thiện tri thức tùng sự thì tăng thêm công đức, giới thành tựu đầy đủ.

Như vậy, A Nan, hãy học điều này. Bấy giờ A Nan nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

Tôi nghe như vậy!

Một thời Phật ở thành La Duyệt, tại Vườn Trúc Ca Lan Đà, cùng với năm trăm người. Bấy giờ Vua A Xà Thế thường đem năm trăm nồi cơm cấp cho Ðề Bà Đạt Đa. Khi đó Ðề Bà Đạt Đa danh vang bốn phương, giới đức đầy đủ, tiếng khen đầy đủ, có thể khiến cho Vua hằng ngày đến cúng dường. Lúc đó, Ðề Bà Đạt Đa được lợi dưỡng này rồi.

Các Tỳ Kheo nghe được bạch với Thế Tôn: Nhân dân trong nước khen ngợi Ðề Bà Đạt Đa, tiếng khen vang xa. Khiến cho Vua A Xà Thế hằng đến cúng dường.

Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Tỳ Kheo các thầy! Chớ ôm lòng ham lợi dưỡng của Ðề Bà Đạt Đa.

Vì sao thế?

Người ngu Ðề Bà Đạt Đa tạo ba việc này: Thân, miệng, ý hành trọn không kinh sợ, hãi hùng. Như nay người ngu Ðề Bà Đạt Đa sẽ lại hết các công đức lành này. Ví như đem chó dữ cắt mũi nó, nó lại càng thêm hung ác. Người ngu Ðề Bà Đạt Đa cũng lại như thế.

Nhận lợi dưỡng này rồi bèn khởi cống cao. Thế nên, các Tỳ Kheo, cũng chớ khởi lòng đắm trước lợi dưỡng. Nếu có Tỳ Kheo mắc vào lợi dưỡng sẽ không được ba pháp.

Thế nào là ba?

Ðó là giới Hiền Thánh, tam muội Hiền Thánh và trí tuệ Hiền Thánh không được thành tựu. Nếu có Tỳ Kheo không mắc lợi dưỡng sẽ được ba pháp.

Thế nào là ba?

Ðó là giới Hiền Thánh, tam muội Hiền Thánh, và trí tuệ Hiền Thánh. Nếu muốn thành tựu ba pháp này nên phát lòng lành chớ mắc lợi dưỡng. Như thế, các Tỳ Kheo, nên học điều này. Bấy giờ các Tỳ Kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

Tôi nghe như vậy!

Một thời Phật ở nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Có ba bất thiện căn này.

Thế nào là ba?

Tham bất thiện căn, sân bất thiện căn, si bất thiện căn. Nếu Tỳ Kheo có ba bất thiện căn này sẽ đọa vào ba đường ác.

Thế nào là ba?

Nghĩa là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Như thế, Tỳ Kheo, nếu có ba bất thiện căn này sẽ có ba đường ác.

Tỳ Kheo nên biết! Có ba thiện căn này.

Thế nào là ba?

Là bất tham thiện căn, bất sân thiện căn, bất si thiện căn. Ðó là, Tỳ Kheo, có ba thiện căn này nếu người có ba thiện căn này liền có hai đường thiện và Niết Bàn là ba.

Thế nào là hai đường?

Nghĩa là người, Trời vậy. Ðó là, này các Tỳ Kheo, người có ba điều lành này sẽ sanh cõi lành này. Thế nên, các Tỳ Kheo, hãy lìa ba bất thiện căn, tu ba thiện căn.

Như thế, các Tỳ Kheo, nên học điều này. Bấy giờ các Tỳ Kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

Tôi nghe như vậy!

Một thời Phật ở nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Có ba nhóm này.

Thế nào là ba?

Nghĩa là nhóm chánh đẳng tụ, nhóm tà và nhóm bất định.

Thế nào là nhóm chánh?

Nghĩa là chánh kiến, chánh tư duy chánh chí, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn phương tiện, chánh niệm, chánh định. Ðó là nhóm chánh.

Thế nào gọi là nhóm tà?

Nghĩa là tà kiến, tà tư duy tà chí, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà phương tiện tinh tấn, tà niệm, tà định. Ðó là nhóm tà.

Thế nào gọi là nhóm bất định?

Nghĩa là không biết khổ, không biết tập, không biết tận diệt, không biết đạo, không biết nhóm chánh, chẳng biết nhóm tà. Ðó là nhóm bất định.

Các Tỳ Kheo nên biết, lại có ba nhóm.

Thế nào là ba?

Nghĩa là nhóm thiện, nhóm chánh, nhóm định.

Thế nào gọi là nhóm thiện?

Nghĩa là ba thiện căn.

Những thiện căn nào?

Nghĩa là bất tham thiện căn, bất sân thiện căn, bất si thiện căn. Ðó là nhóm thiện.

Thế nào gọi là nhóm chánh?

Nghĩa là tám đạo phẩm của Hiền Thánh: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định tam muội. Ðó là nhóm chánh.

Thế nào gọi là nhóm định?

Ðó là biết khổ, biết tập, biết tận, biết đạo, biết nhóm lành, biết đường ác, biết nhóm định. Ðó gọi là nhóm định. Thế nên, các Tỳ Kheo, trong ba nhóm này, nhóm tà và nhóm bất định phải nên tránh xa. Còn nhóm chánh này nên vâng làm.

Như thế, các Tỳ Kheo, nên học điều này. Bấy giờ các Tỳ Kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

Tôi nghe như vậy!

Một thời Phật ở nước Xá Vệ, rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo: Có ba quán tưởng này.

Thế nào là ba?

Nghĩa là quán dục tưởng, quán sân tưởng và sát hại tưởng.

Ðó là, Tỳ Kheo có ba tưởng này Tỳ Kheo nên biết: Nếu có người quán dục tưởng, lúc chết sẽ đọa trong địa ngục. Nếu quán sân tưởng, lúc chết sanh trong súc sanh. Đó là thuộc loại gà, chó, loài rắn rết mà sanh trong đó. Nếu quán hại tưởng khi chết thì sẽ sanh trong ngạ quỷ, hình thể bị thiêu đốt, khổ sở không kể được. Ðó là, này Tỳ Kheo có ba tưởng này sẽ sanh trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.

Lại có ba tưởng.

Thế nào là ba?

Nghĩa là xuất yếu tưởng, bất hại tưởng và bất sân tưởng. Nếu có người có tưởng xuất yếu, lúc chết sẽ sanh trong loài người. Nếu người có tưởng bất hại, lúc chết sanh lên Cõi Trời.

Nếu có người có tâm bất sân, lúc chết đoạn được năm kiết sử sẽ ở nơi đó mà nhập Niết Bàn. Ðó là, Tỳ Kheo, có ba tưởng này thường nhớ tu hành. Ba ác tưởng này nên xa lìa chúng.

Như thế, các Tỳ Kheo, nên học điều này. Bấy giờ các Tỳ Kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

Ðịa Chủ, Bà Câu, Nhĩ Sô Na,

Bà đề, nghịch thuận hương,

Ngu, thế gian, ba bất thiện,

Ba nhóm quán ở sau.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Sáu

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Năm

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Bốn

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Ba

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Hai

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Tám - Phẩm A Lại Da Vi Mật - Tập Một

Kinh Nguyên thủy   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Địa Bà Ha La, Đời Đường