Phật Thuyết Kinh Thiên Nhãn Thiên Tý Quán Thế âm Bồ Tát đà La Ni Thần Chú - Phần Một

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:04 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trí Thông, Đời Đường

PHẬT THUYẾT KINH

THIÊN NHÃN THIÊN TÝ QUÁN THẾ

ÂM BỒ TÁT ĐÀ LA NI THẦN CHÚ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trí Thông, Đời Đường  

PHẦN MỘT  

Bấy giờ Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát bạch Phật rằng: Thế Tôn! Thân trước của con có nhân duyên phước đức chẳng thể nghĩ bàn.

Nay mong Đức Thế Tôn thọ ký cho con. Vì muốn khiến lợi ích cho tất cả chúng sinh nên khởi tâm đại bi hay cắt đứt tất cả sự ràng buộc cột trói, hay diệt tất cả sự sợ hãi, tất cả chúng sinh nương theo uy thần này thảy đều xa lìa nhân khổ được quả an vui.

Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện đối với con, trong năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập diệt có thể ngày đêm y theo Pháp thọ trì Đà La Ni Thần Chú pháp môn này thì tất cả nghiệp chướng thảy đều tiêu diệt, thảy đều thành tựu tất cả Pháp Đà La Ni.

Nay con nhớ báo đáp ân đức của Thế Tôn, tùy ở mọi chỗ nào cho đến thôn xóm, thành thị, đất nước, xã ấp, tụ lạc, hoặc ở núi non, rừng rú. Con thường tùy theo ủng hộ người đó chẳng để cho tất cả quỷ thần gây điều nhiễu hại.

Khi ấy, Quán Thế Âm Bồ Tát lại bạch Phật rằng: Thế Tôn!

Năm trăm năm sau, chúng sinh: Uế nhiều, phước mỏng, chẳng thể chuyên niệm. Giả sử có kẻ thọ trì lại bị quỷ thần xâm hại.

Nay con dùng sức uy thần của Phật, rộng vì lợi ích cho tất cả chúng sinh, đem lại an vui cho hàng: Trời, người, A Tu La … mà nói Pháp Đà La Ni.

Trong vô lượng kiếp ở đời quá khứ, con đã từng gần gũi cúng dường Pháp Đà La Ni như vậy cho đến Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đều nhân vào pháp môn của Đà La Ni này mà được A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề Anuttara Samyaksaṃbuddhi: Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.

Nếu có nhóm trai lành, nữ thiện chuyên niệm thọ trì pháp môn của Đà La Ni này thì đời này người ấy nói năng lưu loát không bị trở ngại, thông đạt tuệ biện. Đối với Trời, Người là bậc đệ nhất ở trong đại chúng, người nghe vui vẻ thảy đều cúi đầu. Tại nơi sinh ra thường được thấy Phật Pháp Tăng nói ra điều gì, người đều tin nhận. Nên biết đây là sức uy thần của Chư Phật chứ chẳng phải tự lực của ta.

Khi đó, Đức Thế Tôn khen ngợi Quán Thế Âm Bồ Tát rằng: Lành thay! Lành thay! Ông hay làm lợi ích an vui như vậy cho hàng Trời, Người, A Tu La … với Tịnh Nghiệp Đạo. Nay ta dùng Trí Ấn ấn chứng khiến cho ông vĩnh viễn chẳng bị thoái chuyển.

Bấy giờ, Quán Thế Âm Bồ Tát lại bạch Phật rằng: Thế Tôn! Con nhớ trong vô lượng kiếp ở đời quá khứ, trì pháp môn Đà Là Ni này ở trong núi Bố Đát La Potala liền gặp Ma Vương thống lãnh các Ma chúng gây não loạn pháp của con khiến cho Chú cú câu chữ của Thần Chú chẳng thành. Lúc ấy, con dùng pháp của Đà La Ni này giáng phục làm cho Ma ấy thảy đều lui tan, nên biết sức của Đà La Ni này chẳng thể nghĩ bàn được.

Khi đó, Quán Thế Âm Bồ Tát dùng từ bi vì lợi ích an vui cho Trời, Người liền nói Mẫu Đà La Ni Pháp Căn Bản Đại Thân Chú dùng Tổng Nhiếp Thân Ấn sau.

1. Ná ma Tát la bà nhược gia.

2. Ná mô hát la đát na đa la dạ dã.

3. Ná mô A nhĩ đà bà gia, đát tha yết đa gia.

4. A la ha đê, tam miểu tam bồ đà gia.

5. Ná mô A lợi gia bạt lộ chỉ đế.

6. Thấp phộc la gia.

7. Bồ Đề tát đỏa gia

8. Ma Ha tát đỏa gia.

9. Ma Ha ca lỗ ni ca gia.

10. Ná mô Ma Ha Tát tha ma ba la bát đa gia.

11. Bồ Đề tát đỏa gia.

12. Ma Ha tát đỏa gia.

13. Ma Ha ca lỗ ni ca gia.

14. Ná mô tỳ bổ la tỳ ma na.

15. Tố bát lạt để sắt xỉ đa.

16. Tăng khí gia tố lợi gia xá đa, sa ha tát la A đê lợi ca.

17. Bát la bà, a phộc bà tất đa mộ lật đát duệ.

18. Ma Ha mạt ni, ma củ tra, quân trà la, đà lật nê.

19. Bạc già phạt để, bát đầu ma ba noa.

20. Duệ tát la bà lộ ca, a bả gia.

21. Xa ma na gia.

22. Tỳ tỳ đà độc khư tam ma tỳ xá phệ sắt tra.

23. Tát bà tát đỏa, bả lý mộ giả na gia.

24. Đát điệt tha.

25. Án.

26. Bộ bộ bà.

27. Ma Ha lộ ca yết la noản na.

28. Na đá ma.

29. Tất để nhĩ la.

30. Bát tra la.

31. Tỳ na xá na, ca la gia.

32. La già trụy xa, Ma Ha mộ ha xà la.

33. Xa ma ca.

34. Xa bà ca.

35. La cật xoa ca.

36. Tát bà ba gia, đột lợi yết để.

37. Bát la xá ma ca na, yết la gia.

38. Tát bà đát tha yết đá.

39. Tam ma phộc đà.

40. Na yết la, hề hề.

41. Ma Ha Bồ Đề tát đỏa, phộc la đà.

42. Bát đầu ma, lộ ca, tam bộ đà.

43. Ma Ha ca lô ni ca.

44. Chiết tra ma củ tra, lăng cật lật đá.

45. Xá Lợi lan ma ni yết na ca la xà đá, bạt chiết la phệ trụ lị gia.

46. Lăng cật đa, Xá Lợi la.

47. A nhĩ đá, bà thị na.

48. Ca ma la, lăng cật lật đá.

49. Bát la bà la na la na la lý giả na.

50. Ma Ha xã na na la na lợi.

51. Xá đá sa ha tát la, a tỳ la sử đá ca gia.

52. Ma ha bồ đề tát đỏa.

53. Tỳ đà ma, Tỳ đà ma.

54. Tỳ na xá gia, Tỳ na xá gia.

55. Ma Ha diễn đổ lỗ cật lệ xa ca bà tra bà bạn đá tăng sa la ca ba la.

56. Ba la ca la ma tha na.

57. Bố lô sa, bát đầu ma.

58. Bố lô sa, na già.

59. Bố lỗ sa, sa già la.

60. Tỳ la, Tỳ la xà gia.

61. Tố đản đa, tố đản đá.

62. Bát lý phiệt lý đa.

63. Đà ma, đà ma.

64. Ta ma, ta ma.

65. Độ lô, độ lô.

66. Bát la xa tát gia.

67. Bát la xa tát gia.

68. Kỳ ly, kỳ ly.

69. Tỳ ly, Tỳ ly.

70. Chỉ ly, Chỉ ly.

71. Mẫu lô, mẫu lô.

72. Mẫu dữu, mẫu dữu.

73. Muộn già, muộn già.

74. Độ na, độ na.

75. Tỳ độ na, tỳ độ na.

76. Độ lỗ, độ lỗ.

77. Già gia, già gia.

78. Già đà gia, già đà gia.

79. Hát sa, hát sa.

80. Bát la ha sa, bát la ha sa.

81. Tỳ tỳ đà.

82. Yết lệ xa.

83. Phộc tát na ma ma tả. Tôi tên là …

84. Hà la, hà la.

85. Tăng hà la, tăng hà la.

86. Đổ lỗ trưng.

87. Đổ lỗ trưng, Ma ha mạn trà la.

88. Ca la noa.

89. Xá đá bát la tế ca.

90. Bá bà sa.

91. Tỳ sa na, xá ma ca.

92. Ma ha bồ đề tát đỏa.

93. Bá la đà.

94. Toa ha.

Đà La Ni này tên là: Bạc Già Phạm Liên Hoa Thủ Nghiêm Sức Bảo Trượng. Đức Thế Tôn ở Điện Đại Kim Cương Hoan Hỷ nói, vì Tôn Thắng Bồ Tát với nơi khen ngợi của vô lượng Trời, Rồng, Khẩn Na La … đều tồi hoại núi nghiệp chướng rộng lớn. Nếu có người được nghe, hoặc đọc hoặc tụng Đà La Ni này thì hết thảy tất cả nghiệp chướng phiền não của người này đều được tiêu diệt.

Nếu có người vào buổi sáng, buổi chiều sinh tâm tôn trọng tụng Đà La Ni này, thường được Quán Thế Âm Bồ Tát luôn luôn tùy theo ủng hộ người đó, mọi việc suy nghĩ đều được thành tựu, nếu có điều cầu nguyện sẽ khiến được thành tựu.

Nên ngồi riêng ở nơi yên lặng, tâm nhớ Quán Thế Âm Bồ Tát không duyên nơi khác, tụng Đà La Ni này bảy biến thì không có nguyện nào mà chẳng được quả. Lại được tất cả chúng sinh yêu thích, chẳng bị đọa vào tất cả các nẻo ác.

Hoặc ngồi, hoặc đi, hoặc đứng thường Niệm Phật như đối trước mắt thì hết thảy các tội nghiệp ác mà người ấy đã gom chứa trong vô lượng trăm ngàn câu chi đời đều được tiêu diệt. Người đó thường được đầy đủ phước của một ngàn vị Chuyển Luân Vương. Đời đời được ở cùng với Quán Thế Âm Bồ Tát, đồng thời được sinh ra ở nhà quý tính tôn quý.

Nếu đem một bụm đầy hương hoa rải tán ở trước Quán Thế Âm Bồ Tát, tụng Đà La Ni này bảy biến sẽ được Đại Thiên Công Đức Đại Bi Pháp Tính. Người ấy ở thế gian được thành tựu đại lực.

Nếu chí tâm nhìn vào mặt Quán Thế Âm, tụng Đà La Ni này liền được thấy tướng mỉm cười của Quán Thế Âm Bồ Tát. Nhìn thấy rồi liền được Địa Ly Cấu. Hay chiếu diệu thế gian. Tức ở đời này thường được thấy Phật. Lúc lâm chung như vào thiền định, đời đời sinh ra đều được túc mệnh trí, hết thảy tội chướng đều được tiêu diệt.

Nếu muốn thọ trì Đà La Ni này, nên vào ngày mười năm của kỳ Bạch Nguyệt mười năm ngày đầu của tháng, thọ trì tám Giới Trai, mặc áo trắng sạch, ở trước nơi có Tháp Xá Lợi với nơi có Xá Lợi, trước mặt Chư Phật thì mới được làm. Dùng Bạch Đàn làm Đàn Mài Bạch Đàn ở trên đá, lấy bụi nhỏ, dùng xoa tô mặt đất. Lấy mọi thứ hoa rải bên trong Đàn ấy, đốt hương thắp đèn trước Tượng Phật.

Ở chỗ của Phật, sinh tâm cung kính thì Quán Thế Âm Bồ Tát đi đến vào trong Đàn ấy, nên tụng Đà La Ni này một trăm lẻ tám biến thì hết thảy tất cả tội chướng, tội nặng ngũ nghịch của người ấy đều được tiêu diệt. Nghiệp thân, khẩu, ý đều được thanh tĩnh. Được Phật Tam Muội Lực, Quán Đỉnh Lực, Ba La Mật Địa Lực, Thù Thắng Trí Lực thảy đều thành tựu.

Nếu cầu mưa thời nên nhìn lên trời, tụng Đà La Ni này thì nước mưa ngọt ứng thời tuôn xuống.

Nếu ngó xuống đất, tụng Đà La Ni này hay khiến cho trăm giống lúa bách cốc đều được thành thục.

Nếu ở bên cạnh ao, sông, suối khô cạn, tụng Đà La Ni này thì nơi ấy lại được tràn đầy nước.

Nếu bị tất cả bệnh hoạn, nên tụng Đà La Ni này, dùng tay xoa lên liền được trừ khỏi bệnh.

Ở bên cạnh người bị mất niệm, tụng Đà La Ni này thì được chánh niệm trở lại.

Nếu ở bên cạnh người đói khát, nên nhìn vào mặt người đó, tụng Đà La Ni này thì hết thảy đói khát thảy đều trừ diệt.

Nếu muốn kết giới, nên vào trong nước ao, viết Đà La Ni này, cột buộc trên cây phướng thì trong một trăm do tuần không có các sự suy kém tai họa. Tức thành kết giới, ủng hộ thành tựu.

Thứ nhất: Tổng Nhiếp Thân Ấn.

Trước hết, đứng thẳng, thân ngay ngắn, hai bàn chân đứng ngang bằng nhau, hơi cong bàn chân phải một chút. Duỗi bàn tay trái xuống dưới, co ngón giữa và ngón vô danh dính nhau trong lòng bàn tay. Duỗi bung ngón út, ngón trỏ, ngón cái. Ngửa lòng bàn tay hướng lên trên. Tiếp theo tay phải cũng như thế, co khuỷu tay sao cho bắp tay ngang rốn, hướng lòng bàn tay về phía trước. Đây là Tổng Nhiếp Thân Ấn.

Nếu muốn giáng phục Ma Oán với các Ngoại Đạo, Tà Kiến, Trù Lâm … khiến vào Chánh Đạo thì nên tác Ấn này, tụng Đà La Ni hai mươi mốt biến ắt như ước nguyện.

Chú là:

Nam Mô hạt la đát la dạ gia Na mô A lợi gia bà lộ cát đế nhiếp phạt la gia Bồ Đề tát đỏa bả gia Ma Ha tát đỏa bả gia Ma Ha ca lỗ ni ca gia Đát điệt tha A bạt đà, A bát đà bạt lợi bạt đế nhân hề di hề toa ha.

Thứ hai: Tổng Trì Đà La Ni Ấn.

Dựa theo Thân Ấn bên trên, chắp tay để ngang trái tim, đem năm ngón tay cài chéo nhau, bên trái đè bên phải, dựng thẳng hai ngón trỏ dính đầu nhau, hai ngón cái phụ đè trên vạch thứ nhất của ngón trỏ, hơi mở lòng bàn tay. Ấn này tên là Tổng Trì Đà La Ni Pháp.

Nếu có người tác Ấn này, tụng Chú hai mươi mốt biến sẽ hay diệt trừ nghiệp chướng của vô lượng kiếp sinh tử. Ngày sau vãng sinh về Tĩnh Thổ ở mười phương.

Khi xưa Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai lúc sắp thành Đạo bị Ma Vương quấy nhiễu, Ngài tác Tổng Trì Đà La Ni Ấn này mà được Thiền Định Chú là:

Đá điệt tha: Tát bà đà la ni mạn trà la gia nhân hề di hề bát la ma du đà tát đá bả gia toa ha.

Thứ ba: Giải Thoát Thiền Định Ấn.

Trước tiên, trật áo hở vai phải, quỳ gối phải sát đất, chắp tay để trên đỉnh đầu, co hai ngón trỏ dính đầu ngón, hai ngón cái phụ trên vạch thứ hai của ngón trỏ.

Ấn Pháp này tên là: Giải Thoát Thiền Định Ấn.

Chư Phật quá khứ đồng tu pháp này mà được Thiền Định giải thoát, đồng với Chú trước.

Thứ Tư: Thiên Nhãn Ấn Chú.

Đứng thẳng, hai chân song song nhau. Trước tiên đem hai ngón giữa, ngón vô danh, ngón út đều để lưng móng của ngón dính nhau. Dựng thẳng hai ngón trỏ dính nhau, hai ngón cái đặt nghiêng trên vạch thứ hai của ngón trỏ, mở cổ tay khoảng năm thốn, đặt ở my gian Tam Tinh. Đây gọi là Thiên Nhãn Ấn.

Tác Ấn Chú pháp môn này liền được quán thấy quốc thổ tĩnh diệu của chư Cõi Phật trong trăm ngàn vạn ức Thế Giới. Mỗi một Cõi Phật đều được trăm vạn bốn ngàn Bồ Tát cùng làm bạn lữ với Hành Giả.

Nếu chưa trải qua ba Mạn Trà La ắt chẳng được nhìn thấy Ấn pháp môn này. Thầy thông tác Pháp ấn này, thân nghiệm được Bồ Tát ban cho trí thông. Phàm có ước nguyện thảy đều mãn túc.

Chú là:

Án Tát bà chước sô già la gia đà la ni Nhân địa lợi gia toa ha.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần