Phật Thuyết Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế âm Bồ Tát Mẫu đà La Ni Thân - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:17 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy

PHẬT THUYẾT KINH

THIÊN THỦ THIÊN NHÃN

QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT

MẪU ĐÀ LA NI THÂN

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Bồ Đề Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy  

PHẦN BA  

Lại ở sáu thời, từ cửa cạnh Tây của Đàn, đi vào bên trong Đàn, đứng trụ ở cửa Tây của Viện thứ ba kết Ấn thứ nhất, Ấn thứ hai, Ấn thứ ba cho đến Ấn thứ mười hai là Thỉnh Phật Tam Muội Gia Ấn. Tác khắp Ấn trước đều tụng chú bảy biếncho đến Ấn thứ mười hai thì hoàn tất. Cần phải tự thề phát thú hướng chẳng thoái lui nguyện của Tâm Đại Bồ Đề Kiên cố.

Xong thường chí thành tác Pháp Hô Triệu tất cả đều đến. Nên ngồi ngay thẳng dùng tâm quyết định, tưởng tất cả các Chú Thần như ở ngay trước mắt, mỗi mỗi không có vách che chướng, chẳng được có cảnh khác, tụng Đại Thân Chú lúc trước mãn hai mươi mốt ngày đêm, ở trên tượng ấy phóng tỏa ánh sáng lớn, lại được Quán Thế Âm Bồ Tát quyết định hiện thân.

Nếu thấy Thân đến sẽ hóa hiện thành thân tướng của A Nan với diện mạo tươi cười, đi đến hỏi hành giả tu theo nguyện nào.

Chú Giả đã tỏ tường liền ngưỡng bạch với Thánh Giả: Vì cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề Mẫu Đà La Ni Tam Ma Địa Pháp. Lại nguyện tất cả Đàn Ấn, Chú Pháp thảy đều thành tựu, tất cả Quỷ Thần đều thuận phục hết.

Được như nguyện xong chỉ tự mình biết, đừng để lộ ra ngoài hay hướng về người mà vọng truyền nói. Được chứng ấy xong, người này liền có thể dùng đại bi để cứu trị thế gian.

Một Đàn Pháp này có thể vẽ trên tấm lụa trắng hoặc vẽ trên miếng vải mịn cũng được.

Nếu muốn cầu tất cả nguyện nên làm một Thủy Man Noa La Thủy Đàn rộng bốn khuỷu tay. Chính giữa vẽ hoa sen, đốt Trầm Thủy hương, tụng Thân Chú lúc trước một ngàn không trăm lẻ tám biến, tác Ấn Khất Nguyện thứ mười liền được tất cả nguyện xứng đầy đủ với tâm.

Nếu muốn tất cả người vui vẻ, tác Ấn thứ chín Hoan Hỷ Ma Ni Tùy Ý Minh Châu Ấn, tụng Đại Thân Chú chú vào mè đen hai mươi mốt biến. Lại một lần chú một lần thiêu đốt, mãn một ngàn không trăm lẻ tám biến liền được tất cả vui vẻ như nguyện.

Nếu muốn La Nhạ Rāja: Vua chúa vui vẻ nên lấy cành cây trong vườn của La Nhạ, chú hai mươi mốt biến rồi ném đặt trong vườn liền được vui vẻ.

Nếu muốn giáng phục người ác, oan gia, nên chú vào cây Khổ Luyện hai mươi mốt biến, cứ trì một chú thì một lần thiêu đốt, mãn một trăm lẻ tám biến liền được quy phục.

Nếu có thần, quỷ, kẻ khó giáng phục. Lấy An Tất Hương hòa với hạt cải trắng, chú hai mươi mốt biến. Lại một lần chú thì một lần thiêu đốt, mãn một trăm lẻ tám biến hay khiến tất cả quỷ thần tự nhiên thần phục.

Nếu có Phương ấp bị bệnh dịch lưu hành, nên làm một cái Thủy Mạn Noa La, lấy Ngưu Tô tốt, chú vào một trăm lẻ tám biến. Cứ trì một lần chú thì một lần thiêu đốt, mãn một ngàn không trăm lẻ tám biến tức tất cả tai dịch thảy đều tiêu diệt. Lại lấy chút ít bơ đem cho người bị bệnh dịch ăn thì người ấy tùy được khỏi bệnh.

Xưa kia nước Kế Tân bị bệnh dịch lưu hành. Người bị bệnh chẳng qua được một, hai ngày thì đã chết. Có vị Bà La Môn Chân Đế khởi dùng đại từ ban cho pháp môn này cứu chữa nên bệnh dịch của một nước ứng thời tiêu diệt. Hành bệnh quỷ vương ấy ứng thời ra khỏi nước, nên biết hiệu nghiệm vậy.

Nếu có nước khác xâm lấn, trộm cướp, nghịch loạn khởi đến. Tác Ấn thứ nhất Tổng Nhiếp Thân Ấn, chú một trăm lẻ tám biến ắt các trộm cướp tự nhiên diệt hết.

Nếu có nam tử, nữ nhân mà tất cả nghiệp báo mệnh căn đã hết. Nếu tác Diệt Tận Định Ấn, ngày ngày cúng dường, đốt Trầm Thủy Hương, tụng Chú. Cứ một lần chú thì một lần xưng danh tự của người, mãn một ngàn không trăm lẻ tám biến liền được chuyển nghiệp chướng ấy.

Xưa kia, nước Ba La Nại có một vị trưởng giả chỉ có một đức con mà tuổi thọ chỉ được mười sáu năm. Đến năm 15, vợ chồng trưởng giả buồn rầu, tiều tụy, mặt không có quang trạch khí sắc tốt.

Có vị Bà La Môn đi đến cửa xin ăn, nhìn thấy trưởng giả nên hỏi rằng: Vì chuyện gì mà chẳng được vui?

Trưởng giả nói nhân duyên ấy đầy đủ như trên.

Vị Bà La Môn đáp rằng: trưởng giả! Đừng nên buồn rầu! Để cho bần đạo xử phân pháp mà hộ cho đứa con được sống lâu không bị chết yểu.

Khi ấy, Bà La Môn tác pháp môn này mãn bảy ngày đêm thì được Vua Diêm La báo rằng: Mệnh căn của đứa con của vị trưởng giả chỉ được mười sáu năm. Nay đã mười năm năm, chỉ còn có một năm. Nhờ gặp duyên lành nên được sống tới tám mươi tuổi, nên mới đến báo tin.

Bấy giờ, vợ chồng trưởng giả vui mừng hớn hở, xả bỏ gia tư, cúng thí Phật Pháp Tăng. Nên biết pháp này có đủ đại thần nghiệm chẳng thể luận bàn.

Trước kia đã từng vào Đô Hội Tam Mạn Noa La Kim Cương Đại Đạo Trường thì chẳng cần làm Đại Mạn Noa La, chỉ làm Thủy Đàn, kết Ấn, tụng Chú ắt không có nguyện gì chẳng được quả, mau chóng thành Phật.

Nếu có người nữ, lúc sinh đẻ chịu đại khổ não. Nên chú vào bơ hai mươi mốt biến khiến người ấy ăn ắt quyết định bảo mệnh, an vui sinh đẻ. Dù sinh con trai hay con gái đều có đủ đại tướng hảo, mọi thiện trang nghiêm. Đời trước gieo trồng gốc Đức nên được mọi người yêu kính, thường ở trong nhân gian thọ nhận khoái lạc thù thắng.

Nếu có chúng sinh bị bệnh về mắt. Chú Pháp Sư ấy kết Bồ Tát Thiên Nhãn ấn, chú hai mươi mốt biến rồi đem Ấn ấn lên con mắt tức liền khỏi bệnh đau mắt. Do nhân duyên này nên người ấy sẽ được Thiên Nhãn vô biên, nhìn thấy suốt Chư Thiên, thọ nhận khoái lạc của Cõi Trời.

Nếu vẽ tượng biến của Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát, nên dùng mảnh lụa trắng khổ rộng mười khuỷu tay hay hai mươi khuỷu tay. Thân của Bồ Tát vẽ màu vàng Diêm Phù Đàn, mặt có ba mắt, tay có một ngàn bàn tay, ở mỗi lòng bàn tay đều có một con mắt, đầu đội mão báu, mão có vị Hóa Phật. Bàn tay lớn chính có mười tám cánh tay.

Trước tiên là hai tay để ngang trái tim chắp lại, một bàn tay cầm chày Kim Cương, một bàn tay cầm Tam Kích Xoa, một bàn tay nắm Phạm Giáp, một bàn tay nắm cái Ấn Báu, một bàn tay cầm cây Thiết Trượng, một bàn tay nâng viên ngọc báu, một bàn tay cầm bánh xe báu, một bàn tay cầm hoa sen hé nở, một bàn tay cầm sợi dây, một bàn tay cầm cành Dương Liễu, một bàn tay cầm Tràng hạt, một bàn tay cầm cái bình Táo Quán, một bàn tay ban nước Cam Lộ tuôn chảy, một bàn tay tuôn mọi loại mưa báu ban cho sự không sợ hãi.

Lại dùng hai bàn tay để ngang rốn, bên phải đè bên trái, ngửa lòng bàn tay. Chín trăm tám mươi hai bàn tay còn lại ở trong bàn tay đều nắm Ấn của mọi loại khí trượng.

Hoặc đơn kết tay Ấn thảy đều chẳng đồng như Tâm Kinh nói. Cổ tay mỗi mỗi đều đeo vòng xuyến, thân khoác áo báu màu nhiệm của Cõi Trời, cổ đeo anh lạc. Trong màu sắc đừng hòa keo nấu bằng da thú, nước dùng hòa chung thường dùng sữa thơm, keo thơm điều hòa.

Lại có một bản ghi rằng: Đất này không có lụa trắng tốt, chỉ lấy một khổ vải trắng cũng được. Thân Bồ Tát trên đồ họa nên dài năm xích năm thước Tàu có hai cánh tay y theo Thiên Tý Ấn Pháp thứ năm lúc trước cũng được rồi cúng dường, chẳng cần yếu có ngàn tay ngàn mắt. Điều này y theo bản Phạn chỉ ở trên vầng trán của Bồ Tát lại đặt một con mắt.

Nếu muốn thọ trì Mẫu Đà La Ni Đại Pháp Môn. Trước tiên nên vẽ tượng. Như lúc vẽ tượng ắt như pháp nghiêm sức thanh tịnh hình vuông tròn ở trong thất, dùng nước Bạch Đàn Hương xoa tô đất ấy làm Mạn Noa La.

Người thợ vẽ lúc vẽ thời ra vào tắm gội sạch sẽ tinh khiết, thân mặc áo sạch mới, mỗi ngày lúc Trời sáng thọ tám trai giới. Như pháp vẽ tượng xong, nếu Chú Pháp Sư và người thợ vẽ sợ có nhiều ô uế chẳng như pháp thì nên như pháp làm một Mạn Noa La tùy tâm rộng bốn khuỷu tay.

Dùng mọi thứ phướng, hoa, thức ăn uống, thức ăn Tam Bạch thực, quả trái, hương, nước, mọi thứ hoa màu đặt bày vòng quanh rộng làm cúng dường. Chú Pháp Sư và người thợ vẽ ấy nên thường mỗi ngày chia ba thời ở trước tượng sám hối tội lỗi, mãn hai mươi mốt ngày đêm.

Tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn ấy liền phóng tỏa ánh sáng lớn ví như mặt trời mặt trăng, vô lượng vô biên chiếu soi khiến cho ba ngàn Đại Thiên, Thế Giới của Phật ở mười phương thảy đều sáng tỏ. Chú Pháp Sư với người thợ vẽ và các chúng sinh gặp được ánh sáng này thì tội nặng cực lớn, một thời tiêu diệt hoặc được thanh tịnh.

Thế Tôn! Người tác Pháp này chỉ trừ kẻ chẳng chí tâm. Con cũng từng thấy Đức Phật Tỳ Bà Thi ở đời quá khứ hiện Thân Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Giáng Ma này.

Thế Tôn! Nay con lại hiện Thân Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Giáng Ma ấy, ở trong ngàn cánh tay đều hiện hóa ra một vị Chuyển Luân Vương tương đồng với một ngàn vị Đại Chuyển Luân Vương ở thời hiền kiếp. Ở trong ngàn tay ngàn mắt đều hiện hóa ra một vị Phật tương đồng với một ngàn vị Phật xuất hiện ở thời hiền kiếp.

Thế Tôn! Trong Bồ Tát Giáng Ma Thân thì thân này là tối vi thượng.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: Lành thay! Lành thay! Ta dùng thần lực đến tận bờ mé của đời tương lai gia bị cho Mẫu Đà La Ni của ông.

Khi ấy, Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát nghe Đức Phật khen xong liền vui mừng hớn hở, chắp tay chiêm ngưỡng Đức Phật rồi bạch rằng: Thế Tôn! Lại có Thiên Thủ Thiên Nhãn Mẫu Đà La Ni Thành Tựu Ấn Pháp. Con lại muốn nói.

Lúc ấy, Đức Thế Tôn bảo Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: Ta đã tùy hỷ. Ông hãy nói đi.

Thời Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát liền nói Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Thành Tựu Pháp Ấn.

Ấn thứ 13: Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Am Bồ Tát Biện Tài Ấn Đặt hai tay chung lưng rồi chắp lại. Hướng ngón cái về phía trước duỗi ra.

Ấn này hay tự hộ, hộ cho người khác. Cần phải Kết Giới tùy theo phương đi đến. Trì, dùng nước sạch hoặc tro sạch đều chú bảy biến. Ở ngay trú xứ dùng nước, dùng tro. Trước tiên tự rải lên thân mình sau đó hướng đến bốn phương bốn góc như pháp rưới vảy liền thành Kết Giới.

Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện bị các chúng quỷ ác, võng lượng, tà, gây mê hoặc rối loạn thì lấy cành Thạch lựu, cành Dương Liễu, âm thầm tụng Chú này đánh nhẹ vào bệnh nhân ắt không có bệnh gì không khỏi.

Chú là:

Nam Mô Tát bà bột đà, đạt ma, tăng kỳ tỳ gia Nam Mô A lợi già bà lô chỉ đế nhiếp phạt la tả Bồ Đề tát đa bả tả Nam Mô bạt chiết la bả ni tả Bồ Đề tát đa bả tả Đát địa tha Đồ tỳ, đồ tỳ ca gia, đồ tỳ Sa la xà bà la ni Cấp bá ha.

Chú Ấn này có sức mạnh hay giáng phục tất cả ngoại đạo tà kiến.

Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện hay thường vào lúc mặt trời mới mọc và lúc mặt trời lặn đều tụng hai mươi mốt biến. Liền đem mọi thứ trân bảo, hoa, hương, thức ăn uống cúng dường mười ức Chư Phật không có khác. Nếu sau khi chết vĩnh viễn xa lìa ba nẻo ác, chẳng thọ thân nữ, tùy được vãng sinh về nước của Phật A Di Đà.

Đức Như Lai trao tay, xoa đỉnh đầu bảo rằng: Ngươi đừng sợ hãi, sinh về nước của ta rồi, hiện thân chẳng bị chết đột ngột, chẳng bị quỷ thần có dịp thuận tiện gây hại.

Ấn thứ mười bốn: Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Toái Tam Thiên Đại Thiên Giới Diệt Tội Ấn Toái: Phá vỡ thành mảnh vụn.

Đứng thẳng, co khuỷu tay trái hướng về phía trước, hơi mở năm ngón gần nhau, dựng thẳng bàn tay đưa lòng bàn tay ra ngoài. Tiếp, co ngang ngón cái của tay phải vào lòng bàn tay, bốn ngón còn lại nắm quyền rồi đặt trên tai phải. Nên tụng Thân Chú, đưa ngón trỏ qua lại.

Nếu hay mỗi ngày ba thời, kết Ấn này, tụng Mẫu Đà La Ni bảy biến thì hay diệt bốn tội nặng, năm tội nghịch. Lại đối với tất cả chúng sinh khởi tâm từ bi liền được thiêu cháy với tất cả tội căn. Sau khi thân này diệt lại được về thẳng Cõi Phật.

Ở Cõi Phật ấy được làm Chuyển Luân Thánh Vương, lại chứng Đà La Ni tên là: Vô Tận Tạng Tam Muội Trí, lại được thân có đủ hai mươi tám tướng. Thân đời này chẳng bị đau mắt, lưỡi… cho đến tất cả các bệnh tật trong thân, tội của nhóm nghiệp lúc trước đều tiêu diệt hết.

Nếu trời hạn hán thì lấy Ô Ma Tử hoà với dầu Tỳ Ma Tử làm thành viên, chú một trăm lẻ tám biến rồi ném vào chỗ nước ao. Tức Trời liền tuôn mưa lớn. Nếu mưa nhiều nên lấy thóc lúa sao rang làm hoa, hòa với dầu rau cải thìa làm thành viên, chú một trăm lẻ tám biến rồi ném vào nước ao thì mưa ấy liền ngưng.

Ấn thứ mười năm: Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Giáng Phục Tam Thiên Đại Thiên Giới Ma Oán Ấn.

Đem năm ngón tay cài chéo nhau, bên phải đè bên trái rồi nắm chặt thành quyền. Nên đặt trên đỉnh đầu, tụng Đại Thân Chú liền được tất cả người oán tự hàng phục.

Nếu tác Pháp này hai mươi chín ngày đêm, ở trước Tháp Xá Lợi trì, dùng bùn Bạch Đàn Hương xoa tô mặt đất, làm cái Đàn rộng hai khuỷu tay, ở bên rải hoa đủ màu, tắm gội sạch sẽ, mặc áo sạch mới, tay bưng lò hương, thiêu đốt Trầm Thủy Hương, ngồi hướng mặt về phương Đông, tưởng Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát như ngự trên đỉnh đầu, tụng Đại Thân Chú mãn một ngàn không trăm lẻ tám biến. Đây là công năng ban đầu của lối nẻo tối thượng chứng Tất Địa.

Lại lấy hạt cải, mè đen hòa chung giã thành bột. Dùng ba ngón tay nhúm lấy chút ít, một lần chú thì một lần ném vào trong lửa, cho đến bảy ngày, mỗi ngày một ngàn không trăm lẻ tám biến. Sau đó thì mọi việc làm thảy đều thành tựu.

Ấn thứ mười sáu: Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Vô Úy Ấn.

Đứng thẳng, hai chân song song. Trước tiên ngửa tay phải rũ ở đầu khuỷu tay trái. Tay trái cũng vậy.

Nếu thường ở trước tượng Xá Lợi, tụng Đại Thân Chú một ngàn không trăm lẻ tám biến sẽ được Vô Úy Thí Lợi Chúng Sinh Tam Muội Gia Môn.

Lại lấy Hồi Hương, hạt cải trắng, Xương bồ, Xả Đa Ba Lợi tên thuốc nước ngoài. Dùng nhóm vật này nên ở trước Phật hoặc ở tại Đàn. Dùng Đại Thân Chú, cứ một lần chú thì một lần thiêu đốt, mãn một ngàn không trăm lẻ tám biến. Lại dùng hương, hoa cúng dường Chú Kinh thì mọi ước nguyện thảy đều được quả đúng hạn.

Nếu các Chú khác không có ứng nghiệm. Dùng Chú này chú vào cũng đều thành tựu.

Nếu muốn cầu mộng thì tụng Chú này kèm kết Ấn ấn lên con mắt sẽ khiến cho mọi việc sở niệm tùy thấy trong mộng.

Nếu người không có phước, mọi điều ước đến đều chẳng hài lòng. Mỗi ngày tụng một trăm lẻ tám biến cho đến bảy ngày thì các điều mong cầu đều được tất cả.

Lúc ấy, Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát lại bạch Phật rằng: Thế Tôn! Xưa kia tại Pháp Hội Đại Hải trong cung Rồng Sa Kiệt La, con nhìn thấy các chúng Rồng thọ khổ não lớn. Do nghĩ đến các hàng Rồng với các chúng sinh nên con muốn nói Pháp này khiến cho được xa lìa khổ không có các sự oán hại.

Thời có một Long nữ dâng cho con viên ngọc báu Đại Như Ý trị giá bằng Thế Giới Ta Bà để cầu pháp này. Con cũng vì cô ấy rộng nói Mẫu Đà La Ni pháp này khiến lìa xa các khổ.

Bấy giờ, Thủy Tinh Bồ Tát bạch rằng: Thế Tôn! Con cũng vì lợi ích hộ trì Chú này nên nói Hộ Trì Thiên Nhãn Ấn Chú.

Thứ mười bảy: Thủy Tinh Bồ Tát Ấn Chú.

Tỳ ma lệ Ma Ha Tỳ ma lệ Úc ha lệ Ma Ha Úc ha lệ Hưu ma lệ Ma Ha hưu ma lệ Tát ha lệ chỉ lệ thế Cấp bà ha.

Thế Tôn! Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện ở ngay nơi du phương thọ trì Thiên Thủ Thiên Nhãn Bồ Tát Pháp. Con sẽ thường tùy vệ hộ người ấy chẳng để cho các quyến thuộc của ma gây não loạn.

Nếu có người bị nạn cấp bách, nước khác xâm hại, trộm cướp, nghịch loạn. Nên lấy chỉ ngũ sắc, dùng Chú này, cứ một lần chú thì một lần thắt gút, mãn hai mươi mốt gút rồi buộc ở cánh tay trái.

Lại dùng tay trái: Ngón vô danh, ngón giữa, ngón trỏ nắm quyền, ngón cái đè lên trên, cong ngón út chỉ về nơi có giặc, tụng Chú một trăm lẻ tám biến thì chúng thảy đều lui tan chẳng thể gây hại.

Khi ấy, Quán Thế Âm Bồ Tát ở trong núi Tuyết nói pháp thời từ xa quán thấy Dạ Xoa, La Sát với nhân dân trong nước chỉ ăn máu thịt của chúng sinh, không có tâm lành.

Bồ Tát vì muốn lợi ích, phương tiện giáo hóa, dùng sức thần thông tìm đến nước đó, hiện Thân Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Giáng Ma, nói Thành Tựu Mẫu Đà La Ni Ấn. Lúc đó Quốc Vương La Sát đi đến chỗ ta Quán Thế Âm Bồ Tát cầu xin đỉnh lễ. Ta dùng Ấn Thành Tựu ấn cho liền khiến được Pháp Vô Thượng Đạo.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần