Phật Thuyết Kinh Thủ Hộ đại Thiên Quốc Thổ - Phần Bốn
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Thi Hộ, Đời Tống
PHẬT THUYẾT KINH
THỦ HỘ ĐẠI THIÊN QUỐC THỔ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Thi Hộ, Đời Tống
PHẦN BỐN
Khi Đức Thế Tôn vì Đại Phạm Thiên Vương và hết thảy đại chúng nói Đại Minh Vương Tâm Đà La Ni xong, lại nói kệ rằng:
Ta nay vì các chúng người, Trời
Nói ra như thế pháp sâu màu
Như báu trong tóc Vua Đế Thích
Ở trong khắp chốn thường được thắng
Mười phương Như Lai thảy chứng biết
Hơn hết tất cả trong Trời Người
Đây là Pháp báu không gì hơn
Là sự chân thật được an lạc
Nhẫn nhục tiêu trừ các phiền não
Như người khát uống vị Cam Lồ
Năng Nhân nói ra pháp vi diệu
Lợi ích hết thảy các chúng sanh
Pháp này sâu màu không gì hơn
Làm hạnh Cam Lồ tiêu tai ách
Đây là Pháp Bảo rất tối thắng
Là Pháp chân thật được an lạc
Lợi ích hết thảy các chúng sanh
Nói ra các Pháp Cam Lồ này
Tức là ba đời Bạc Già Phạm
Tối thắng bình đẳng Tam ma địa
Thường hành Vô Thượng Hạnh Du Già
Hiện ra bậc Kim Cang hai đạo
Đây là Pháp Bảo đứng bậc nhất
Rốt ráo chân thật được an lạc
Bổ Trì Ca La hạnh tương ưng
Tám đại trượng phu thường tu hành
Hoặc là nói ra bốn lý thú
Các pháp giải thoát của Như Lai
Nay nói quả báo của pháp thí
Như nơi đất tốt gieo hạt giống
Trong đó Tăng điền là trên hết
Đến cùng chân thật được an lạc
Vì cầu vô thượng bồ đề vậy
Tâm phải bền chắc không thối chuyển
Xuất gia giữ gìn hạnh Sa Môn
Xiển dương Như Lai Pháp vi diệu
Khiến chúng mau được vị Cam Lồ
Ta, người mau được Đại Niết Bàn
Nên gọi Tăng Bảo hạnh thứ nhất
Đến cùng chân thật được an lạc
Diệt tận hết thảy tham, sân, si
Như trong kiếp hỏa không còn sót
Thân kiến, biên kiến và tà kiến
Kiến thủ, giới thủ thảy tiêu vong
Hoặc dùng hết thảy các phương tiện
Đồng với phàm phu cứu chúng sanh
Tăng bảo thật là đứng trên hết
Đến cùng chân thật được an lạc
Tham dục sân si chẳng còn sanh
Cho đến ngu, mạn đều như thế
Thân, ngữ, ý nghiệp đều thanh tịnh
Hay trừ quần sanh các thứ khổ
Hiểu rõ tự tánh như hư không
Trong sạch, vắng lặng, không thủ, xả
Do đó Tăng Bảo là trên hết
Đến cùng chân thật được an lạc
Tâm thường bền chắc không lay động
Như là Bảo Tàng của Đế Thích
Bốn phương tám hướng gió lớn thổi
Cũng không làm cho phướng động lay
Bố Trí Ca La cũng như vậy
Hiện các thần thông độ quần mê
Tăng Bảo thật là đứng trên hết
Đến cùng chân thật được an lạc
Hoặc hay ở trong bốn Thánh Đế
Xem tột thậm thâm lý sâu màu
Mở mắt trí huệ cho chúng sanh
Cùng dùng đàn giới bố thí, trì giới lợi cho họ
Giữ gìn các pháp không tán loạn
Tiêu trừ chúng sanh tám nạn khổ
Tăng Bảo thật là đứng trên hết
Đến cùng chân thật được an lạc
Phiền não các lậu đều dứt sạch
Như bị gió lửa, thổi đốt tiêu
Tiêu rồi không còn sanh lại nữa
Như vậy không sanh cũng không diệt
Không thể thấy được không nghe biết
Ta nay bảo cùng với các ông
Tăng Bảo thật là đứng trên hết
Đến cùng chân thật được an lạc
Lợi ích hết thảy các chúng sanh
Cho đến nhân và loại phi nhân
Cúng dường mười phương hết thảy Phật
Lễ lạy các điều được an lạc
Lợi ích hết thảy các chúng sanh
Cho đến nhân và loại phi nhân
Cúng dường mười phương hết thảy Phật
Giữ gìn Pháp Tạng được an lạc
Lợi ích hết thảy các chúng sanh
Cho đến nhân và loại phi nhân
Cúng dường mười phương hết thảy Phật
Cung kính Tăng Già được an lạc
Mười phương các loại tụ tập đây
Hoặc ở trên đất hoặc hư không
Thường đối với đời khởi từ tâm
Ngày đêm phụng trì pháp vi diệu
Như Lai lời thật độ chúng sanh
Nghe lời chân thật bỏ oán hết
Hay khiến chúng sanh được giải thoát
Đây là chân thật được an lạc
Chúng ta cùng quyến thuộc
Cùng với loại hữu tình
Xa lìa nơi sanh tử mau đến được.
Tất địa Đà La Ni rằng:
Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm, địa lỵ địa lỵ mạt lê nễ lị khu sử mạt ra sa rị sa ra mạt túy đô để bát ra, bộ đa bát ra bát để a ra mạt a ra khu sử sa ra phạ ni a tả du đế mạt ra phạ để thú ra bát ra bát đế sa ra nga minh tát rị dã nễ rị khu sử sa phạ ha.
Đức Phật bảo Đại Phạm Thiên Vương: Đây là Thủ Hộ Đại Thiên Quốc Thổ Đại Minh Vương Giải Thoát Pháp Môn, là Bí Ấn của hằng hà sa Chư Phật Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.
Ở trong đây sanh ra vô lượng câu, nghĩa sai khác như là Phật Câu, Pháp Câu, Tăng Câu, Đại Phạm Thiên Vương Câu, Đế Thích Câu, Hộ Thế Tứ Thiên Vương Câu, Ma Hê Thủ La Câu, Căn Bản Câu, Ý Câu, Tánh Câu, Nhân Câu, Trụ Xứ Câu, Tịnh Tịnh Câu, Hết Thảy Như Lai, Độc Giác, Duyên Giác Quán, Thanh Văn Quán.
Như vậy, hết thảy các loại Pháp câu, hết thảy Đại Phạm Thiên Vương và Phạm Chúng, Đế Thích, Hộ Thế Tứ Thiên Vương cung kính cúng dường, ngợi khen, Ma Hê Thủ La và hết thảy Chư Thiên cung kính cúng dường, ngợi khen, Du Già A Xà Lê và các Pháp Sư nên thường đọc tụng.
Do Bí Ấn này làm tăng ích Phạm Thiên Vương và các Chư Thiên Chư Tiên Thần Thông biến hóa, các loại trí huệ, cho đến tất cả trong thế gian ngoại đạo, Phạm Chí phát tâm hoan hỷ, xả bỏ tà nghiệp.
Ấn này là gốc rễ trí huệ của Chư Phật, Chư Bích Chi Phật, là đạo Niết Bàn, là hết thảy hạnh tương ưng của Thanh Văn, vì các chúng sanh và tướng Bồ Đề mà nói Pháp Nhất Thừa chỉ đường Thánh, mở cửa giải thoát, chặt đứt lưới kiến, phá nát núi ngã mạn, vào đạo thanh tịnh, dứt khỏi luân hồi, khô biển ái dục, phá núi xương sanh tử của chúng sanh.
Chặt đứt dây trói của Ma Vương, làm cho Ma Vương và quyến thuộc phải sợ sệt, phá hoại cảnh giới của Ma Vương, dẹp giặc phiền não khiến chúng sanh được vào Thánh Đạo, ở trong các ác đạo độ chúng hữu tình, xa lìa nhà phiền não an trú trong thành Niết Bàn.
Liền nói Đà La Ni rằng:
Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm, liêm nghi liên nghi, hê số dữu số đà nĩnh sa ra địa bát ra tì vĩ bố ra bát ra tì nhĩ tăng yết rị sái ni vĩ yết ra sái ni vĩ xả khất ra phạ để thuật đà sa đà nĩnh phạ rô tát phạ để phạ sa nễ vĩ bộ sa ni vĩ sảng nga minh, vĩ thuật ma để bố sắc bà nga rị tì sa phạ tất đề dã túy đô sa phạ ha.
Đức Phật bảo Đại Phạm Thiên Vương: Kinh này tên gọi là Thủ Hộ Đại Thiên Quốc Thổ Đại Minh Vương Giải Thoát Pháp Môn, là Bí Ấn của hằng hà sa Chư Phật Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Ấn này là chỗ quy y của hết thảy Thiên, Nhân, A Tu La, là thành Niết Bàn của Chư Phật, Như Lai, Bích Chi, Thanh Văn chúng, cho đến quá khứ Chư Phật, Bích Chi Phật, Thanh Văn chúng đều dùng Kinh Điển này làm cha mẹ, vi nhiễu lễ bái, cung kính cúng dường.
Đại Phạm Thiên Vương! Ta từ xưa cũng dùng Đại Minh Vương Giải Thoát Pháp Môn này, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn cho đến đầy đủ các Ba La Mật, cho nên nay được Đạo Bồ Đề, hàng phục quân Ma.
Bấy giờ, Đại Phạm Thiên Vương của Ta Bà Thế Giới, Thiên Đế Thích, Hộ Thế Thiên Vương cùng nhau đứng dậy đồng bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Cúi xin dùng sức oai thần của Thủ Hộ Đại Thiên Quốc Thổ Đại Minh Vương hộ trì chúng con và quyến thuộc cùng hết thảy các loại chúng sanh khiến được an lạc, dùng Bí Ấn này ấn nơi bốn phương và ấn hết thảy Dạ Xoa, La Sát, Bộ Đa, quỷ thần khiến phải điều phục.
Trong đó nếu có loại nào khởi tâm ác độc làm việc không có ích lợi, dùng Đại Minh Vương Đà La Ni này chế phục khiến phải quy thuận. Bí Ấn Kinh Điển sâu màu này chúng con xin cúi đầu nhận lãnh không dám vượt qua.
Khi ấy, Đức Thế Tôn dùng Mật Ấn mà ấn đó, liền nói Đại Minh Vương Đà La Ni rằng:
Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm, ca lân nghi bà ra nhĩ nhạ da hật rị nhạ ma đế tinh ha ma nhĩ sa nga rô khất ra bát ra bát đế tì sa nga di ninh ma lệ ninh hổ rô lăng nga lê ninh ha đát ha đát ha đát ha đát ha đát tát da ninh phạ ra khất rị phạ để ha tất đề ninh phạ ra phạ để tấn nõa lê phạ ra tai nhĩ diệu tả tả ra tả rị sa phạ ha.
Lúc Đức Thế Tôn nói Thủ Hộ Đại Thiên Quốc Thổ Đại Minh Đà La Ni này, thời ba ngàn đại thiên Thế Giới chấn động theo sáu cách, bốn phương bốn hướng hết thảy Dạ Xoa, La Sát, bộ đa quỷ thần thảy đều la lớn tiếng thật đáng sợ rằng: Khổ thay! Khổ thay! Hôm nay vì sao có tai nạn như thế này?
Khiến các loại chúng ta đều bị phá hoại tan nát. Nói rồi thảy đều hoang mang phiền não.
Khi ấy, ĐứcThế Tôn biến cõi đại địa thành ra báu Kim Cang, các loại Dạ Xoa, La Sát, Bộ Đa quỷ thần thảy đều ngồi trên đất Kim Cang ấy, do thần thông oai lực của Phật thảy đều té nhào, các Dạ Xoa, La Sát, Bộ Đa, quỷ thần hoảng hốt sợ sệt bỏ chạy tán loạn.
Bấy giờ, Hộ Thế Tứ Thiên Vương lại biến ra lửa cháy rựa rỡ bốn phương, khắp nơi không đường để chạy trốn, các loại Dạ Xoa, La Sát, Bộ Đa, quỷ thần thấy việc như vậy càng thêm sợ hãi vọt lên hư không.
Ngay lúc đó Chủ Ta Bà Thế Giới Đại Phạm Thiên Vương nương theo oai thần của Phật ở trong hư không hiện ra cái lọng sắt cao bảy cây Đa La che phủ khắp nơi, các Dạ Xoa, La Sát, Bộ Đa quỷ thần liền đứng khựng lại không đường chạy nữa. Khi ấy, Thiên Đế Thích ở trong hư không lại hiện núi đá, kiếm kích, dao gậy, cung tên v.v... lại tuôn gỗ xuống như mưa.
Ngay lúc bấy giờ trong cõi Ta Bà lại có năm nghìn Đại Dạ Xoa dùng sức oai thần của Đại Minh này tự trói mà đến tụ tập nơi Phật hội, tâm thần hoảng hốt, thân thể run rẩy như người bị rét.
Đảnh lễ chân Phật rồi đứng qua một bên, chắp tay hướng về phía Phật mà bạch rằng: Đại Sa Môn Kiều Đáp Na Gautama thường dùng lòng đại bi mà che chở quần sanh, lợi lạc cứu hộ tất cả. Đại Sa Môn Kiều Đáp Na, chúng con nay bị sợ hãi không có gì để cứu giúp được, cúi xin đại bi cứu giúp chúng con khỏi nạn khổ.
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các loại Dạ Xoa, La Sát, Bộ Đa, quỷ thần rằng: Các người nên biết từ nay về sau phụng trì giáo pháp của ta, thọ trì giới hạnh không được sai trái. Nếu như các ông không nghe lời của ta, cũng như giết cha mẹ, giết A La Hán, phá hòa hợp Tăng, làm thân Phật ra máu, tội kia như vậy.
Lại nếu các Dạ Xoa, La Sát, Bộ đa quỷ thần vi phạm Pháp Ấn, không thuận Chú của Ta thì sẽ bị Đại Minh Vương quật ngã xuống đất, đầu bể bảy phần, thân thể xương thịt thảy đều tan nát, lại bị các bệnh nơi thân, đen đúa, không thể bay trong hư không, thường rớt dưới đất. Các ông nên biết, nếu nơi nào có Thủ Hộ Đại Thiên Quốc Thổ các người không được vượt qua, phải theo lời ta các người sẽ được an lạc.
Bấy giờ, các Dạ Xoa, La Sát, Bộ Đa, quỷ thần, người và Phi Nhân phụng Phật Giáo sắc vâng theo lời dạy của Phật rồi trở về chỗ cũ.
Vua thành Tỳ Xá Ly và nhân dân thảy đều được xa lìa các tai nạn, trong thành Tỳ Xá Ly hết thảy các loại chim như, Xá Lợi, Cu Chỉ La, Hạc, Khổng Tước v.v... thảy đều hót lên lời vi diệu rằng: Như Lai Đại Bi nói ra pháp vi diệu làm lợi ích an lạc hết thảy chúng sanh, chúng ta bây giờ không bị các Dạ Xoa, La Sát, Bộ Đa, quỷ thần giết hại, xa lìa các tai nạn, chúng ta hôm nay hết cả sợ sệt.
Bấy giờ, lại có vô số các Thiên Nữ, Khẩn Na La Nữ, mỗi mỗi đều cầm các món diệu bảo, các thứ nhạc khí cúng dường Đức Phật. Lại có các loại cây như cây trái Cát tường, cây trái Am Ma La, Ni Câu Đà, Ba La Lợi, các loại cây như vậy phát ra các mùi thơm.
Lại có trăm ngàn Thiên chúng ở trong hư không cung kính lễ bái và đồng khen rằng: Lành thay! Lành thay! Hôm nay chúng ta được thắng lợi lớn! Lại rải các thứ hoa, đốt các thứ hương để cúng dường Đức Phật.
Bấy giờ, Bốn Đại Thiên Vương đồng thời chắp tay mà bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Làm thế nào dùng Bí Ấn Đại Minh Kinh Điển giữ gìn hết thảy Quốc Độ, thành ấp, tụ lạc khiến được xa lìa các việc chấp mị xấu ác, không lành.
Đức Phật dạy bốn Đại Thiên Vương: Nếu có Tỳ Kheo thanh tịnh, trang nghiêm, y pháp thọ trì đọc tụng, viết chép cúng dường. Các người như vậy, hết thảy sợ sệt, oan gia, đấu tranh, lao tù, cột trói, giết hại lẫn nhau, ganh ghét nhau, các loại tai nạn đều không còn bị nữa.
Nếu trong Quốc Độ, thành ấp, tụ lạc bị Dạ Xoa, La Sát, Bộ Đa, quỷ thần gây nhiễu hại, hoặc nơi Vương cung, hoặc Tăng Già Lam, hoặc nơi tụ lạc, hoặc nơi vườn rừng tạo lập Man Đà La, kết Địa Giới sạch sẽ, trang sức đẹp đẽ, tắm rửa, mặc quần áo mới trắng sạch, ăn tam bạch thực, bảo nhân dân không được ăn ngũ tân, giữ gìn cấm giới.
Nơi chúng sanh khởi tâm bình đẳng thương xót, đốt các thứ hương thơm, bôi các thứ hương bột, rải các thứ hoa để cúng dường, khiến các đồng nữ tắm rửa sạch sẽ mặc quần áo mới, trang sức nơi thân, tay cầm bốn các linh và bốn chén báu trong chén đựng đầy các đồ ăn uống để cúng dường.
Nơi giữa ngày tụng Đại Minh Đà La Ni gia trì vào chỉ trắng đủ sáu mươi lượng gần một sải tay rồi dùng Thần Tuyến dây chỉ đỏ cột trên đảnh tháp hoặc để nơi Chùa, hoặc bên cây, từ ngày một cho đền ngày rằm đọc tụng Thụ Hộ Đại Thiên Quốc Thổ Đà La Ni Kinh, cúng dường các món hương hoa như vậy trong nước, vương cung.
Cho đến rừng Sa La, chuồng trâu bò, các chỗ súc sanh ở đều quét dọn sạch sẽ, trang sức nơi cửa, chung quanh đều dùng nước hương tán rải, lại dùng các thứ hương đốt mà xông đào đất làm một cái lò dùng Khư Đà La mộc Khadira Hộ Ma, rải các loại hoa, các loại hạt giống, Bạch Giới Tử ở khắp bốn phương và trong lửa lại dùng các màu nhuộm chỉ cột nơi cửa để chỉ thòng xuống, vào ra đi đứng thảy đều an vui, cho đến các loại súc sanh cũng được như vậy.
Lại viết chép Kinh này, đọc tụng, cúng dường đem an trí ở các chỗ cao khiến trong đất nước hết thảy nhân dân đều được an lạc. Nếu người có bệnh đem để Kinh này trước người bệnh cúng dường các thứ sẽ được an lạc.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Nhất Thiết Pháp Cao Vương - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Viên Giác - Chương Mười Hai - Chương Hiền Thiện Thủ
Phật Thuyết Kinh Nói Về Pháp Bố Thí
Phật Thuyết Kinh Pháp Cú - Phẩm Hai Mươi Năm - Phẩm Tỳ Kheo
Phật Thuyết Kinh Tăng Chi Bộ - Chương Một - Một Pháp - Phẩm Năm - Phẩm ðặt Hướng Và Trong Sáng