Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Ba - Kinh Phật Tự Thuyết - Chương Sáu - Phẩm Sanh Ra đã Mù
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán
PHẬT THUYẾT KINH TIỂU BỘ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
An Thế Cao, Đời Hậu Hán
TẬP BA
KINH PHẬT TỰ THUYẾT
CHƯƠNG SÁU
PHẨM SANH RA ĐÃ MÙ
Như vậy tôi nghe!
Một thời Thế Tôn trú ở Vesàli tại Ðại Lâm chỗ ngôi nhà có nóc nhọn.
Rồi Thế Tôn vào buổi sáng, đắp y, cầm bát, đi vào Vesàli để khất thực.
Khất thực ở Vesàli xong, sau buổi ăn, khi đi khất thực trở về, Thế Tôn gọi Tôn Giả A Nan Đà: Này A Nan Đà, hãy cầm tọa cụ, ta sẽ đi đến điện Càpàla để nghỉ ban ngày.
Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn Giả A Nan Đà vâng đáp Thế Tôn, cầm tọa cụ và đi sau lưng Thế Tôn.
Thế Tôn đi đến đền Càpàla, khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn, Thế Tôn nói với Tôn Giả A Nan Đà:
Này A Nan Đà, khả ái thay Vesàli!
Khả ái thay Vesàli!
Khả ái thay đền Udena!
Khả ái thay đền Gotamaka!
Khả ái thay đền Sattambaka!
Khả ái thay đền Bahuputta!
Khả ái thay đền Sàrandada!
Khả ái thay đền Càpàla!
Này A Nan Đà, những ai đã tụ tập Bốn như ý túc, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ địa, được an trú, tích lũy, khéo thực hành, nếu muốn, người ấy có thể sống đến một kiếp hay phần kiếp còn lại.
Này A Nan Đà, nay Như Lai đã tu tập Bốn như ý túc, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ địa, được an trú, tích lũy, khéo thực hành.
Này A Nan Đà, nếu muốn Như Lai có thể sống đến một kiếp hay phần còn lại!
Nhưng Tôn Giả A Nan Đà không thể nhận hiểu sự gợi ý quá rõ ràng, sự hiện tướng quá rõ ràng của Thế Tôn, không thỉnh cầu Thế Tôn: Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy ở lại cho đến trọn kiếp!
Thiện Thệ hãy ở lại cho đến trọn kiếp, vì lợi ích cho chúng sanh, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài người. Vì tâm Tôn Giả bị Ma Vương ám ảnh.
Lần thứ hai Lần thứ ba Thế Tôn nói với Tôn Giả A Nan Đà:
Này A Nan Đà, khả ái thay Vesàli!
Khả ái thay đền Udena!
Khả ái thay đền Gotamaka!
Khả ái thay đền Sattambaka!
Khả ái thay đền Bahyputta!
Khả ái thay đền Sàrandada!
Khả ái thay đền Càpàla!
Nhưng Tôn Giả A Nan Đà không thể nhận hiểu sự gợi ý quá rõ ràng, sự hiện tướng quá rõ ràng của Thế Tôn, không thỉnh cầu Thế Tôn: Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy ở lại cho đến trọn kiếp!
Thiện Thệ hãy ở lại cho đến trọn kiếp, vì lợi ích cho chúng sanh, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài người!
Vì tâm Tôn Giả bị Ma Vương ám ảnh.
Rồi Thế Tôn nói với Tôn Giả A Nan Đà: Này A Nan Đà, hãy đi và làm những gì thầy nghĩ là hợp thời!
Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn Giả A Nan Đà vâng đáp Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài rồi ngồi xuống một gốc cây không xa bao nhiêu. Tôn Giả A Nan Đà ra đi không bao lâu, ác ma đi đến Thế Tôn, sau khi đến liền đứng một bên.
Ðứng một bên, ác ma nói với Thế Tôn: Bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn hãy diệt độ! Thiện thệ hãy diệt độ.
Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ.
Bạch Thế Tôn, đấy là lời Thế Tôn đã nói: Này ác ma, ta sẽ chưa diệt độ, khi nào những Tỳ Kheo của ta chưa trở thành những đệ tử có tài năng được huấn luyện, đạt được tự tín, an ổn khỏi các khổ ách, nghe nhiều, trì pháp, thực hành chánh pháp và tuỳ pháp, sống chánh hạnh, sống tùy pháp, sau khi học hỏi giáo lý từ thầy của mình.
Khi nào họ chưa có thể tuyên bố, diễn giảng, trình bày, xác định, khai mở, phân tích rõ ràng chánh pháp. Khi nào có tà đạo khởi lên, họ chưa có thể, sau khi chất vấn, khéo hàng phục một cách đúng pháp, chưa có thể thuyết pháp thần diệu.
Bạch Thế Tôn, nay có những Tỳ Kheo, đệ tử của Thế Tôn có tài năng, được huấn luyện, đạt được tự tín, an ổn khỏi các khổ ách, nghe nhiều, trì pháp, thực hành chánh pháp và tùy pháp, sống chánh hạnh, sống tùy pháp.
Sau khi học hỏi giáo lý từ Thầy của mình, họ tuyên bố diễn giảng trình bày, xác định, khai mở, phân tích và giải thích rõ ràng chánh pháp. Khi có tà đạo khởi lên, sau khi chất vấn, họ khéo hàng phục một cách đúng pháp, thuyết pháp thần diệu.
Bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn hãy diệt độ. Thiện Thệ hãy diệt độ.
Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ Bạch Thế Tôn, đây là lời Thế Tôn đã nói.
Này ác ma, ta sẽ không diệt độ khi nào những Tỳ Kheo Ni của ta những Nam Cư Sĩ của ta những Nữ Cư Sĩ của ta chưa trở thành những đệ tử có tài năng chưa có thể thuyết pháp thần diệu.
Bạch Thế Tôn, nay có những Tỳ Kheo Ni những Nam Cư Sĩ những Nữ Cư Sĩ đệ tử của Thế Tôn có tài năng, được huấn luyện, đạt được tự tín có thể thuyết pháp thần diệu.
Như vậy, nay Thế Tôn hãy diệt độ, Thiện Thệ hãy diệt độ!
Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ!
Bạch Thế Tôn, đây là lời Thế Tôn đã nói. Này ác ma, ta sẽ không diệt độ khi nào phạm hạnh ta giảng dạy chưa được thành tựu, thành đạt, phổ biến, quảng bá, biến mãn, nghĩa là được khéo giảng dạy, cho Chư Thiên và loài người.
Bạch Thế Tôn, nay phạm hạnh Thế Tôn Giảng dạy đã được thành tựu, thịnh đạt, phổ biến, quảng bá, biến mãn, nghĩa được khéo giảng dạy cho Chư Thiên và loài Người. Như vậy, nay Thế Tôn hãy diệt độ.
Thiện Thệ hãy diệt độ!
Bạch Thế Tôn! Nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ!
Khi được nói vậy, Thế Tôn nói với ác ma: Này ác ma, hãy yên tâm, không bao lâu Như Lai sẽ diệt độ. Sau ba tháng bắt đầu từ hôm nay, Như Lai sẽ diệt độ. Và tại đền Càpàla, Thế Tôn chánh niệm tỉnh giác, từ bỏ thọ hành, không duy trì mạng sống lâu hơn nữa. Khi Thế Tôn từ bỏ thọ hành, thời Đại Địa chấn động, ghê rợn, lông tóc dựng ngược, sấm Trời vang dậy.
Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng:
Bậc ẩn sĩ từ bỏ,
Các hành động sanh hữu,
Sanh hữu có cân lượng,
Sanh hữu không cân lượng,
Ưa thích hướng nội tâm,
Thật định tỉnh an tịnh,
Phá đổ ngã sanh hữu,
Như cởi thoát áo giáp.
Như vậy tôi nghe!
Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi, tại Ðông Viên, lâu đài mẹ của Migàra. Lúc bấy giờ Thế Tôn vào buổi chiều, từ độc cư thiền tịnh đứng dậy và đến ngồi tại một ngôi nhà nhỏ phía cửa ngoài. Rồi vua Pasenadi nước Kosala đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên.
Lúc bấy giờ bảy vị bện tóc, bảy vị Ni kiền Tử, bảy vị lõa thể, bảy vị mặc một y và bảy vị Du Sĩ, với nách đầy lông, với móng tay dài, mang các dụng cụ khất sĩ, đã đi ngang qua Thế Tôn không xa bao nhiêu.
Rồi vua Pasenadi nước Kosala, từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp y một bên vai, quỳ xuống trên đầu gối tay mặt, chấp tay hướng về bảy vị bện tóc, bảy vị Ni Kiền Tử, bảy vị lõa thể, bảy vị mặc một y và bảy vị Du Sĩ ấy, nói lên ba lần tên của mình: Thưa chư Tôn Giả, con là vua Pasenadi nước Kosala!
Rồi vua Pasenadi nước Kosala, khi bảy vị bện tóc, bảy vị Ni kiền Tử, bảy vị Ni kiền Tử, bảy vị lõa thể, bảy vị mặc một y, và bảy vị Du Sĩ ấy đã đi ngang qua không bao lâu, liền đi đến Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên.
Ngồi xuống một bên, vua Pasenadi nước Kosala bạch Thế Tôn: Bạch Thế Tôn, có phải những Tôn Giả ấy là những vị A La Hán trên đời này, hay là những vị đang đi trên con đường hướng đến đạo quả A La Hán?
Thưa Ðại Vương, khi Ðại Vương còn là Cư Sĩ trong khi còn sống với gia đình, thọ hưởng dục lạc, bị vợ con trói buộc, quen dùng các loại chiên đàn ở xứ Kàsi, trang sức với vòng hoa, hương thơm, dầu sáp, thọ hưởng vàng và bạc thời Ðại Vương thật khó biết được các vị ấy là bậc A La Hán hay là bậc đang đi con đường hướng đến A La Hán quả.
Thưa Ðại Vương, chính phải cộng trú mới biết được giới đức của một người và như vậy phải trong một thời gian dài không thể ít ngày được, phải có tác ý không phải không có tác ý. Phải có trí tuệ không phải với ác tuệ.
Thưa Ðại Vương, chính phải có liên hệ mới biết được sự thanh liêm của một người, phải trong một thời gian dài không thể ít ngày được, phải có tác ý, không phải không có tác ý, phải có trí tuệ không phải với ác tuệ.
Thưa Ðại Vương, chính trong thời gian bất hạnh biết được sự trung kiên của một người, phải trong một thời gian dài không thể ít ngày được.
Phải có tác ý, không phải không tác ý.
Phải có trí tuệ, không phải với ác tuệ.
Thưa Ðại Vương, chính phải đàm luận biết được trí tuệ của một người, và như vậy phải trong một thời gian dài không thể ít ngày được. Phải có tác ý, không phải không tác ý, phải có trí tuệ, không phải với ác tuệ.
Thật là hy hữu, bạch Thế Tôn!
Thật là kỳ diệu, bạch Thế Tôn, khi Thế Tôn đã khéo nói như sau: Thưa Ðại Vương, khi Ðại Vương còn là Cư Sĩ không phải với ác tuệ.
Bạch Thế Tôn, có những trinh thám này của con những người trinh sát sau khi đi trinh sát mặt nước, chúng đến con. Trước hết họ báo cáo rồi con mới đúc kết.
Bạch Thế Tôn, ở đây những người ấy sau khi tẩy sạch bụi và nhớp, sau khi tắm rửa và xoa dầu, sau khi chải sạch râu tóc, mặc áo vải trắng, chúng được hầu hạ săn sóc và cho thọ hưởng năm dục công đức.
Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên bài kệ này:
Phải siêng năng cố gắng,
Tại bất cứ chỗ nào,
Chớ trở thành là người
Thuộc vào con người khác,
Chớ có sống ỷ lại,
Nương tựa vào ngưòi khác,
Chớ sống nghề buôn bán,
Ðem pháp để kiếm lời.
Như vậy tôi nghe!
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ Thế Tôn ngồi quán sát của pháp bất thiện của mình được trừ diệt, và các pháp thiện của mình được tu tập, làm cho tăng trưởng.
Rồi Thế Tôn sau khi biết các pháp bất thiện của mình đã được trừ diệt và các pháp thiện của mình được tu tập, được làm cho sung mãn, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:
Trước có nay không có,
Trước không có nay có,
Ðã không và sẽ không,
Và nay hiện không có.
Như vậy tôi nghe!
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ một số đông các ngoại đạo sai khác. Các Sa Môn, Bà La Môn, các Du Sĩ ngoại đạo đều vào Sàvatthi để khất thực.
Họ có quan điểm khác nhau, có kham nhẫn khác nhau, có sở thích khác nhau, y cứ nương tựa vào quan điểm khác nhau.
Một số Sa Môn, Bà La Môn, luận thuyết như sau: Thế Giới là thường còn, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng.
Một số Sa Môn, Bà La Môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau: Thế Giới là vô thường, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng.
Một số Sa Môn, Bà La Môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau: Thế Giới là có biên tế, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng.
Một số Sa Môn, Bà La Môn luận thuyết như sau, có quan điểm như sau: Thế Giới là vô biên, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng.
Một số Sa Môn, Bà La Môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau: Sanh mạng và thân thể là một, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng.
Một số Sa Môn, Bà La Môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau: Sanh mạng và thân thể là khác, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng.
Một số Sa Môn, Bà La Môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau: Như Lai có tồn tại sau khi chết, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng.
Một số Bà La Môn, Bà La Môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau: Như Lai không có tồn tại sau khi chết, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng.
Một số Bà La Môn, Bà La Môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau: Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau khi chết, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng.
Một số Bà La Môn, Bà La Môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau: Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng.
Họ sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh, đả thương nhau bằng binh khí miệng lưỡi: Như thế này là pháp. Như thế này là pháp. Như thế này không phải pháp. Như thế này không phải pháp.
Rồi nhiều Tỳ Kheo vào buổi sáng đắp y, cầm bát đi vào Sàvatthi, để khất thực, Khất thực ở Sàvatthi xong sau buổi ăn, khi đi khất thực trở về, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Ngồi xuống một bên, các Tỳ Kheo ấy bạch Thế Tôn: Ở đây, bạch Thế Tôn, một số đông ngoại đạo sai khác, các Sa Môn, Bà La Môn, các Du Sĩ ngoại đạo đều vào Sàvatthi để khất thực, như thế này không phải pháp, như thế này là pháp.
Này các Tỳ Kheo, các Du Sĩ ngoại đạo là những người mù, không có mắt, không biết mục đích, không biết phải mục đích, không biết pháp, không biết phi pháp.
Do họ không biết mục đích, do họ không biết không phải mục đích, do không biết pháp, do không biết phi pháp, họ sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh như thế này là pháp. Này các Tỳ Kheo, thưở xưa tại thành Sàvatthi này, có một ông vua.
Này các Tỳ Kheo, ông vua ấy bảo một người: Này người kia, phàm có bao nhiêu những người sanh ra đã mù ở Sàvatthi hãy nhóm lại một chỗ tất cả.
Thưa vâng, Ðại Vương.
Này các Tỳ Kheo, người ấy vâng đáp ông vua ấy, phàm có bao nhiêu những người sanh ra đã mù ở Sàvatthi, người ấy giữ lại tất cả, rồi đi đến ông vua ấy, sau khi đến thưa với vị vua: Thưa Ðại Vương, phàm có bao nhiêu những người sanh ra đã mù ở Sàvatthi đã được tụ tập lại.
Này khanh, hãy đưa ra một con voi cho những người mù.
Thưa vâng, Ðại Vương.
Này các Tỳ Kheo, người ấy vâng đáp ông Vua ấy, đưa ra một con voi cho những người mù: Này các người mù, đây là con voi.
Với một số người mù, ông ta đưa cái đầu và nói: Này các người mù, đây là con voi.
Ðối với một số người mù, ông ta đưa cái lỗ tai con voi và nói: Này các người mù, đây là con voi.
Ðối với một số người mù, ông ta đưa các ngà con voi và nói: Này các người mù, đây là con voi.
Ðối với một số người mù, ông ta đưa cái vòi con voi và nói: Này các người mù, đây là con voi.
Ðối với một số người mù, ông ta đưa cái thân con voi và nói: Này các người mù, đây là con voi.
Ðối với một số người mù, ông ta đưa cái chân.
Ðối với một số người mù, ông ta đưa cái lưng.
Ðối với một số người mù, ông ta đưa cái đuôi.
Ðối với một số người mù, ông ta đưa cái lông đuôi và nói: Này các người mù, đây là con voi.
Này các Tỳ Kheo, rồi người ấy sau khi đưa con voi cho các người mù, đi đến ông vua ấy, sau khi đến tâu với vua: Thưa Ðại Vương, con voi đã được các người mù thấy, nay Ðại Vương hãy làm những gì Ðại Vương nghĩ là hợp thời!
Rồi này các Tỳ Kheo, ông vua đi đến các người mù ấy, sau khi đến nói với họ: Này các người mù, các ông đã thấy con voi chưa?
Thưa Ðại Vương, chúng tôi đã thấy con voi.
Này các người mù, hãy nói con voi là như thế nào?
Này các Tỳ Kheo, những ai thấy đầu con voi, họ nói như sau: Thưa Ðại Vương, con voi là như thế này, như cái ghè!
Này các Tỳ Kheo, những ai được thấy cái tai con voi, họ nói như sau: Thưa Ðại Vương, con voi là như thế này, như cái rổ sàng gạo.
Này các Tỳ Kheo, những ai được thấy cái ngà con voi, họ nói như sau: Thưa Ðại Vương, con voi là như thế này, như cái lưỡi cày.
những ai được thấy cái vòi như cái cày.
những ai được thấy cái thân như cái kho chứa.
những ai được thấy cái chân như cái cột.
những ai được thấy cái lưng như cái cối.
những ai được thấy cái đuôi, họ nói như sau: Thưa Ðại Vương, con voi là như thế này, như cái chày.
những ai được thấy cái nhóm lông đuôi, chúng nói như sau: Thưa Ðại Vương, con voi là như thế này, như cái chổi.
Con voi các ông nói như vậy không phải là con voi.
Con voi không phải như vậy.
Con voi không phải vậy.
Như thế này là con voi.
Cho đến khi họ đánh lộn nhau bằng tay.
Rồi này các Tỳ Kheo, ông vua ấy hoan hỷ.
Cũng vậy, này các Tỳ Kheo, các Du Sĩ ngoại đạo là những người mù, không có mắt như vậy là pháp.
Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng:
Có một số Sa Môn,
Cùng với Bà La Môn,
Họ chấp trước, giành giật,
Trong các luận thuyết này,
Họ tranh luận tranh chấp,
Họ nhìn chỉ một phía.
Như vậy tôi nghe!
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika.
Lúc bấy giờ, nhiều ngoại đạo sai khác, các Sa Môn, Bà La Môn, các di sĩ trú ở Sàvatthi.
Họ có quan điểm khác nhau.
Họ có kham nhẫn khác nhau.
Họ có sở thích khác nhau.
Họ y cứ nương tựa vào quan điểm khác nhau.
Một số Sa Môn, Bà La Môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau: Tự ngã và Thế Giới là thường còn, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng.
Một số Sa Môn, Bà La Môn Tự ngã và Thế Giới là vô thường.
Tự ngã và Thế Giới là thường còn và vô thường.
Tự ngã và Thế Giới là không thường còn và không vô thường.
Tự ngã và Thế Giới do tự mình tạo ra.
Tự ngã và Thế Giới do người khác tạo ra.
Tự ngã và Thế Giới do tự mình và người khác tạo ra.
Tự ngã và Thế Giới do không tự mình tạo ra, không do người khác tạo ra, do vô nhân sanh, tự nhiên.
Lạc khổ, tự ngã và Thế Giới là thường còn.
Lạc khổ, tự ngã và Thế Giới là vô thường.
Lạc khổ, tự ngã và Thế Giới là thường còn và vô thường.
Lạc khổ, tự ngã và Thế Giới là không thường còn và không vô thường.
Có một số Sa Môn, Bà La Môn có luận thuyết như sau, quan điểm như sau: Lạc khổ, tự ngã và Thế Giới là không tự mình tạo ra, không người khác tạo ra do vô nhân sanh.
Họ sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh, đả thương nhau, bằng binh khí miệng lưỡi:
Như thế này là pháp.
Như thế này không phải là pháp.
Như thế này không phải pháp, như thế này là pháp.
Rồi nhiều Tỳ Kheo vào buổi sáng đắp y, cầm y bát vào Vương Xá để khất thực.
Khất thực ở Vương Xá xong, sau buổi ăn, đi khất thực trở về, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Ngồi xuống một bên, các Tỳ Kheo ấy bạch Thế Tôn: Ở đây, bạch Thế Tôn, có nhiều ngoại đạo sai khác, các Sa Môn, Bà La Môn, các Du Sĩ, trú ở Sàvatthi họ sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh, đả thương nhau bằng binh khí miệng lưỡi: Như thế này là pháp. Như thế này không phải pháp. Như thế này không phải pháp, như thế này là pháp.
Này các Tỳ Kheo, các Du Sĩ ngoại đạo là những người mù, không có mắt, không biết mục đích, không biết không phải mục đích, không biết pháp, không biết phi pháp.
Do họ không biết mục đích, do họ không biết không phải mục đích, do không biết pháp, do không biết phi pháp, họ sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh, đã thương nhau bằng binh khí miệng lưỡi:
Như thế này là pháp.
Như thế này không phải pháp.
Như thế này không phải pháp.
Như thế này là pháp.
Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng:
Có một số Sa Môn,
Cùng với Bà La Môn,
Họ chấp trước giành giật,
Trong các luận thuyết này,
Họ bị chìm đắm xuống,
Khi đang còn giữa dòng,
Họ không đạt đến được,
Ðất cứng trên bờ kia.
Giống như Kinh trên tức là Kinh trước, với đoạn kết luận khác nhau như sau.
Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:
Có người ở đời này,
Chấp người làm là ta,
Trói buộc với tư tưởng,
Người làm là người khác,
Họ không biết sự này,
Họ thấy là mũi tên,
Ai nhìn mũi tên này,
Với thận trọng cần thiết,
Người ấy không còn chấp,
Người làm chính là ta,
Người ấy cũng không chấp,
Người làm là người khác,
Loài người ở đời này,
Bị kiêu nạn khiếp phục,
Bị cột bởi kiêu mạn,
Bị trói bởi kiêu mạn,
Trong các loài chủ thuyết,
Họ cạnh tranh, luận tranh,
Họ không thể vượt qua,
Luân chuyển trong sanh tử.
Như vậy tôi nghe!
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn của ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, Tôn Giả Subhùti ngồi không xa Thế Tôn bao nhiêu, ngồi kiết già lưng thẳng, nhập định không tầm.
Thế Tôn thấy Tôn Giả Subhùti ngồi không xa bao nhiêu, ngồi kiết già lưng thẳng, nhập định không tầm.
Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy nỗi lên lời cảm hứng:
Với ai, tầm quét sạch,
Nội tâm khéo cắt đứt,
Không còn chút dư tàn
Vượt qua ái nhiễm ấy,
Ðạt được tưởng vô sắc,
Vượt khỏi bốn ách nạn,
Không đi đến thọ sanh.
Như vậy tôi nghe!
Một thời Thế Tôn trú ở Vương Xá, tại Trúc Lâm, chỗ nuôi dưỡng các con sóc.
Lúc bấy giờ, ở Vương Xá, có hai nhóm say đắm một ngưòi kỹ nữ, tâm bị ám ảnh, họ cạnh tranh, đấu tranh nhau.
Họ đi đến đánh nhau bằng nắm tay, đánh nhau bằng cục đất, đánh nhau bằng gậy gộc, đánh nhau bằng kiếm. Họ đi đến chết, đi đến đau khổ gần như chết.
Rồi nhiều Tỳ Kheo, vào buổi sáng đắp y, cầm bát, đi vào Vương Xá để khất thực. Khất thực ở Vương Xá xong, sau buổi ăn, khi đi khất thực trở về, các Tỳ Kheo đi đến Thế Tôn, sau khi đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Ngồi xuống một bên, các Tỳ Kheo ấy bạch Thế Tôn: Bạch Thế Tôn, ở Vương Xá có hai nhóm say đắm một người kỷ nữ họ đi đến chết, đi đến đâu khổ gần như chết.
Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng:
Phàm cái gì đạt được,
Cái gì cần phải đạt,
Cả hai vướng bụi trần,
Với kẻ bị bệnh hoạn,
Học tập chưa thuần thục,
Kẻ tinh chuyên học tập,
Sống giữ gìn giới cấm,
Tinh chuyên chú phạm hạnh,
Ðây là một cực đoan,
Ðây là một chủ thuyết,
Trong dục không lỗi lầm,
Là cực đoan thứ hai,
Cả hai cực đoan này,
Làm mộ phần tăng trưởng,
Chính do các tà kiến,
Làm tăng trưởng mộ phần.
Những ai không thắng tri,
Cả hai cực đoan này,
Có kẻ bị chìm đắm,
Có kẻ chạy quá mau,
những ai thắng tri chúng,
Không có suy tư vậy,
Không có tự quá mạn,
Họ không có luân chuyển,
Ðể được tuyên bố lên.
Như vậy tôi nghe!
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn của ông Anàathapindika.
Lúc bấy giờ, Thế Tôn đang ngồi giữa Trời, trong đêm tối mù mịt, với những cây đèn dầu đang chói sáng.
Lúc bấy giờ, nhiều loại côn trùng có cánh tiếp tục rơi vào trong những đèn dầu ấy và gặp phải tai nạn, gặp phải hoại diệt, gặp phải tai nạn hoại diệt.
Thế Tôn thấy nhiều loại côn trùng có cánh tiếp tục rơi vào.
Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy nói lên lời cảm hứng:
Họ chạy gấp vượt qua,
Nhưng bỏ mất lối cây,
Họ làm cho tăng trưởng,
Các trói buộc mới mẻ,
Như các loại côn trùng,
Rơi vào trong ánh sáng,
Có người sống dựa vào
Ðiều được thấy được nghe.
Như vậy tôi nghe!
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavena, khu vườn ông Anàthapindika. Rồi Tôn Giả A Nan Đà, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Ngồi xuống một bên, Tôn Giả A Nan Đà bạch Thế Tôn: Bạch Thế Tôn, cho đến khi nào, các Như Lai không hiện hữu ở đời, bậc A La Hán, Chánh Ðẳng Giác, cho đến khi ấy các Du Sĩ ngoại đạo được cung kính, được tôn trọng, được đảnh lễ, được cúng dường, được tôn kính, nhận được các vật dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh.
Nhưng đến khi các Như Lai hiện hữu ở đời, bậc A La Hán, Chánh Ðẳng Giác, cho đến khi ấy, các Du Sĩ ngoại đạo, không được cung kính, không được tôn trọng, không được đảnh lễ, không được cúng dường, không nhận được các vật dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh.
Bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn được cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, tôn trọng, nhận được các vật dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Chúng Tỳ Kheo cũng như vậy.
Ðúng như vậy, này A Nan Đà. Cho đến khi nào, các Như Lai không xuất hiện ở đời dược phẩm trị bệnh. Nhưng đến khi các Như Lai xuất hiện ở đời dược phẩm trị bệnh. Này A Nan Đà nay Thế Tôn được cung kính chúng Tỳ Kheo cũng vậy.
Sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, Thế Tôn nói lên lời cảm hứng:
Con đôm đốm chiếu sáng,
Khi Mặt Trời chưa mọc,
Khi Mặt Trời mọc lên,
Ánh sáng đôm đốm diệt,
Cũng vậy là ánh sáng,
Của các nhà ngoại đạo,
Khi bậc Chánh Ðẳng Giác
Chưa xuất hiện ở đời,
Các nhà ưa biện luận.
Không có được ánh sáng,
Cũng vậy đệ tử chúng,
Còn các nhà tà kiến,
Họ không được giải thoát,
Khỏi các sự đau khổ.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba