Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Mười - Chuyện Tiền Thân đức Phật - Chương Hai Mươi Hai - Phẩm Hai - Phần Một

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:19 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán

PHẬT THUYẾT KINH TIỂU BỘ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư 

An Thế Cao, Đời Hậu Hán  

TẬP MƯỜI

CHUYỆN TIỀN THÂN ĐỨC PHẬT  

CHƯƠNG HAI MƯƠI HAI  

PHẨM HAI  

CHUYỆN HIẾU TỬ SÀMA

TIỀN THÂN SÀMA  

PHẦN MỘT  

Ai đó đang mai phục bắn mình. Câu chuyện này bậc Đạo Sư kể tại Kỳ Viên về một Tỳ Kheo phụng dưỡng mẹ. Chuyện kể rằng có một thương nhân giàu có tại thành Xá Vệ, của cải lên đến một trăm tám mươi triệu, người này có một cậu con trai rất được yêu quý.

Một ngày nọ, cậu trai đi lên lầu, mở cửa nhìn xuống đường, khi thấy đám đông dân chúng đang đi đến Kỳ Viên, tay cầm hương hoa cúng dường để nghe thuyết pháp, cậu bảo rằng cậu cũng muốn đi.

Cậu truyền đem hương hoa lại, rồi cậu đi đến Tịnh Xá cúng dường y phục, dược phẩm, cùng các thức ăn uống cho chúng Tỳ Kheo ở đó và đảnh lễ Đức Thế Tôn với hương hoa, rồi ngồi xuống một bên.

Sau khi nghe Thuyết Pháp, cậu nhận thức được các quả ác do tham dục gây ra và những quả phúc do đời sống tu hành mang lại. Rồi khi hội chúng ra về, cậu xin Đức Thế Tôn cho cậu thọ giới.

Nhưng Đức Như Lai bảo cậu rằng Ngài không truyền giới cho ai chưa xin phép cha mẹ. Vì thế cậu ra về, nhịn ăn một tuần, cuối cùng được cha mẹ chấp thuận, cậu trở lại và xin thọ giới. Thế Tôn bảo một Tỳ Kheo làm lễ xuất gia cho cậu.

Sau đó vị Tỳ Kheo mới này được tán thán và đạt nhiều công hạnh, được sự ái mộ của các vị sư trưởng và giáo thọ và khi đã thọ đại giới, ông tinh thông giáo pháp trong vòng năm năm.

Rồi vị Tỳ Kheo này nghĩ: Ta sống viễn ly ở chốn này thật không hợp với ta. Và ông nóng lòng đạt cứu cánh của thiền định. Thế là sau khi nghe lời dạy của vị Giáo Sư về thiền định, ông đi đến một làng ở biên giới, sống trong rừng sâu hành trì phép thiền định, nhưng không đạt được ý niệm nào đặc biệt, dù ông đã tinh cần tu tập trong mười hai năm liền mà tâm không được định tĩnh.

Cũng trong thời gian này, cha mẹ của Tỳ Kheo này trở nên nghèo túng vì những người thuê đất hay bán hàng cho nhà này thấy trong nhà không có con em gì đến buộc họ trả nợ, cho nên đã đoạt hết của cải nào rơi vào tay họ và tha hồ chạy trốn.

Gia nhân tôi tớ trong nhà lại trộm vàng bạc trốn đi. Vì thế cuối cùng hai người lâm vào cảnh khốn cùng, không còn đến cái bình đựng nước nữa, phải bán nhà đi lang thang hết sức cùng cực, phải đi ăn xin, mặc áo rách rưới và mang chiếc bình mẻ trong tay.

Lúc bấy giờ có một Trưởng Lão Tỳ Kheo từ Kỳ Viên đến nơi cư trú của người con trai ấy, ông tiếp đón ân cần vị khách kia xong, ngồi yên lặng hỏi thăm khách từ đâu đến. Khi được biết từ Kỳ Viên, ông hỏi thăm sức khỏe của bậc Đạo Sư cùng các đại đệ tử của Ngài, xong rồi hỏi thăm tin tức cha mẹ mình.

Thưa Tôn Giả, xin Tôn Giả cho biết tình cảnh của một gia đình thương nhân ở Xá Vệ. Này hiền hữu, đừng hỏi thăm tin tức gia đình ấy nữa.

Tại sao thế, thưa Tôn Giả?

Người ta nói gia đình ấy có một cậu con trai, nhưng cậu ta đã đi tu theo Đạo Pháp, và từ khi cậu ấy xuất gia thì gia đình cậu bị sạt nghiệp, lúc này cả hai ông bà lão đang lâm vào tình cảnh rất thê thảm và phải đi ăn xin.

Khi ông nghe khách nói xong, không thể nào cầm lòng được, nước mắt cứ ràn rụa và khi khách hỏi tại sao lại khóc, ông đáp: Thưa Tôn Giả, đó chính là cha mẹ tôi, tôi là con của các vị ấy. Này hiền hữu, cha mẹ bạn đã sạt nghiệp vì bạn,vậy hãy về phụng dưỡng các vị.

Ông liền nghĩ: Trong mười hai năm liền ta tinh cần tu tập mà không thể nào đạt đạo hay đắc quả, có lẽ ta vô tài trí.

Vậy ta có làm gì được với đời sống phạm hạnh này?

Chi bằng ta trở về làm một gia chủ phụng dưỡng cha mẹ già và bố thí của cải. Như vậy cuối cùng ta cũng được sinh lên Thiên Giới. Quyết định xong ông nhường chỗ cư trú của mình trong rừng cho vị Trưởng Lão kia.

Hôm sau ông ra đi, qua nhiều chặng đường thì tới Tinh Xá phía sau Kỳ Viên không xa thành Xá Vệ mấy. Tại đó ông thấy hai con đường, một đường dẫn đến Kỳ Viên, một đường dẫn đến Xá Vệ.

Khi đứng đó, vị Tỳ Kheo này suy nghĩ: Ta đến viếng cha mẹ ta trước hay Đức Phật trước?

Rồi ông tự nhủ: Ngày xưa ta gặp cha mẹ ta luôn, từ đây ta sẽ ít có dịp yết kiến Đức Phật. Vậy ta hãy yết kiến bậc Chánh Đẳng Giác ngày hôm nay và nghe Thuyết Pháp, rồi ngày mai ta sẽ đi thăm cha mẹ.

Thế là ông bỏ con đường đi Xá Vệ và đi đến Kỳ Viên lúc chiều tối. Vào ngày đó, lúc tảng sáng, bậc Đạo Sư nhìn xuống trần gian, đã thấy được tiềm lực ngộ đạo của vị này, nên khi ông đến yết kiến Thế Tôn, Ngài tán thán công đức của cha mẹ theo Kinh Màtiposaka voi hiếu dưỡng mẹ Tiền Thân.

Trong khi đứng cuối hội chúng Tỳ Kheo và nghe thuyết pháp, ông nghĩ: Nếu ta trở thành người gia chủ, ta có thể phụng dưỡng cha mẹ ta, nhưng bậc Đạo Sư cũng dạy: Một người con đi xuất gia vẫn có thể giúp đỡ cha mẹ mình. Trước kia ta rời thế tục mà không đến yết kiến Đức Thế Tôn, và ta đã thất bại trong sự thọ giới không trọn vẹn như vậy.

Bây giờ ta muốn phụng dưỡng cha mẹ ta mà vẫn duy trì đời sống tu hành chứ không làm một người gia chủ. Vì vậy ông cầm lấy thẻ cùng các vật thực phát theo thẻ và cháo của mình và cảm thấy như thể mình đã phạm trọng tội đáng bị khai trừ sau mười hai năm độc cư trong rừng.

Sáng hôm sau ông đi đến Xá Vệ và nghĩ thầm: Ta nên đi lấy cháo trước hay thăm cha mẹ ta trước đây?

Ông nghĩ lại và thấy rằng đi thăm cha mẹ trong lúc cha mẹ nghèo khổ mà không có gì trong tay để biếu thì thật là không phải đạo.

Vì thế ông đi lấy cháo trước rồi đến cửa nhà cũ. Vừa thấy cha mẹ ngồi cạnh bức tường đối diện, sau khi đã đi một vòng khất thực được cháo lòng, ông đứng không cách xa họ mấy và bỗng thấy nỗi sầu thương nổi lên, mắt đẫm lệ.

Còn họ thấy ông nhưng không nhận ra, rồi bà mẹ tưởng rằng đó là một kẻ đang chờ của bố thí, liền nói: Chúng ta không có gì để bố thí cho người cả, người chịu khó đi nơi khác. Nghe bà mẹ nói vậy, ông cố nén nỗi buồn đang tràn đầy trong lòng, đứng yên mắt đẫm lệ, và khi được bảo lần thứ hai, thứ ba, ông vẫn đứng yên.

Cuối cùng ông cha bảo bà mẹ: Bà đến xem thử có phải con trai bà đó không?

Bà vùng dậy chạy đến nhìn ra con, gục xuống chân mà than khóc, ông cha cũng khóc theo, bao nỗi sầu khổ đều tuôn ra hết. Thấy lại cha mẹ, ông không thể nén được lòng mình, cũng bật khóc.

Sau cơn xúc động, ông nói: Đừng buồn nữa cha mẹ ôi, con sẽ phụng dưỡng cha mẹ. Thế là sau khi an ủi cha mẹ và cho họ húp nước cháo rồi ngồi xuống bên đường, ông lại ra đi khất thực đem về cho cha mẹ dùng, sau đó mới đi khất thực cho chính mình. Xong bữa ăn, ông liền đi tìm nơi trú chân không xa đó mấy. Từ ngày ấy về sau ông chăm sóc cha mẹ bằng cách này.

Ông đem cho cha mẹ đồ khất thực dành cho mình, luôn cả những vật dụng bố thí hằng nửa tháng một lần, và ông đi khất thực nhiều lần để thọ dụng.

Còn những vật thực dành cho mùa mưa cũng đều đem cho cha mẹ dùng, trong khi ông đem áo quần rách của cha mẹ về đóng cửa kín mà nhuộm lại để mặc.

Nhưng rất ít ngày ông đi khất thực được đồ dùng, phần nhiều là chẳng được gì cả, nên y trong cũng như y ngoài đều tả tơi cả.

Trong thời gian chăm sóc cha mẹ như thế, ông dần dần trở nên xanh xao gầy ốm, bạn hữu thấy vậy bảo: Da dẻ bạn trước đây tươi sáng, nhưng nay bạn xanh xao quá, hẳn có bệnh gì?

Ông đáp: Ta không có bệnh gì cả, nhưng ta đang gặp một chướng ngại. Rồi ông kể cho họ nghe câu chuyện nhà.

Họ đáp: Thưa Hiền Giả, bậc Đạo Sư không cho phép ta phí phạm lễ vật cúng dường của các thí chủ, bạn đã làm việc trái phép khi đem lễ vật cúng dường của thí chủ cho người thế tục.

Nghe nói vậy, ông hổ thẹn cúi gầm mặt xuống, nhưng vẫn chưa thỏa dạ, họ đem chuyện kể với bậc Đạo Sư: Bạch Thế Tôn, người này đã phí phạm lễ vật cúng dường và đem cho người thế tục.

Bậc Đạo Sư cho gọi vị Tỳ Kheo trẻ ấy đến và hỏi: Có phải ông đã xuất gia mà còn lấy vật cúng dường của thí chủ đem cho người thế tục không?

Ông thú nhận là có.

Rồi bậc Đạo Sư muốn ngợi khen việc làm của ông và nói về một việc cũ của Ngài, liền hỏi: Thế ông phụng dưỡng người thế tục nào đó?

Bạch Thế Tôn, chính cha mẹ của con.

Ông đáp.

Lúc đó Thế Tôn muốn khuyến khích việc làm của ông hơn nữa, Ngài bảo ba lần: Tốt lành thay! Tốt lành thay! Ông đang đi con đường ngày xưa Ta đã đi qua, ngày xưa khi đi khất thực Ta cũng phụng dưỡng cha mẹ Ta. Như thế vị Tỳ Kheo được Ngài khích lệ vì việc đó. Rồi theo lời thỉnh cầu của chúng Tỳ Kheo, bậc Đạo Sư kể chuyện quá khứ để cho biết các nghiệp đời trước của Ngài.

Ngày xưa, không xa thành Ba La Nại, ở phía bên này sông, có một làng thợ săn và một làng nữa ở bên kia sông, mỗi làng có chừng năm trăm gia đình cư trú.

Lúc bấy giờ có hai nhà thiện xạ trong hai làng đó là đôi bạn thân thích, họ giao ước với nhau từ trẻ rằng nếu đôi bên sinh con trai và con gái thì sẽ gả con cho nhau.

Theo thời gian trôi, một cậu trai được hạ sinh trong nhà thiện xạ bên này sông và một cô gái sinh vào nhà thiện xạ kia. Cậu bé được đạt tên Dukùlaka vì khi sinh ra đời cậu được quấn trong lớp tã lót thật đẹp, còn cô gái được đặt tên là Parikà, vì cô sinh ra bên kia sông.

Cả hai đều xinh đẹp với làn da óng ả như vàng và mặc dù được sinh ra trong làng săn bắn, chúng không hề sát sinh hại mạng.

Khi cậu bé lên mười sáu tuổi, cha mẹ cậu bảo: Này con, cha mẹ sẽ cưới vợ cho con.

Nhưng cậu là một người thanh tịnh từ Phạm Thiên Giới mới xuống đây, cho nên cậu bịt tai lại bảo: Con không muốn ở trong nhà, đừng nói chuyện ấy với con. Rồi mặc dù cha mẹ cậu nói chuyện đó ba lần, cậu không tỏ ý ham thích chút nào.

Còn nàng Parikà cũng vậy, khi cha mẹ nàng bảo: Con trai của ông bạn nhà ta thật khôi ngô với làn da óng ả như vàng, cha mẹ định gả con cho cậu ấy đấy. Nàng cũng bịt tai lại và trả lời như chàng trai kia. Vì chính nàng cũng xuống đây từ Phạm Thiên Giới.

Cậu Dukùlaka bí mật gửi cho cô gái một lời nhắn nhủ: Nếu nàng muốn sống đời vợ chồng thì hãy tìm đến một gia đình khác, vì ta không muốn như vậy. Và nàng cũng gửi cậu một lời nhắn nhủ tương tự như thế.

Nhưng dù họ không đồng ý, cha mẹ họ vẫn cử hành hôn lễ. Thế là cả hai người sống riêng lẻ như các vị Phạm Thiên, không hề sa vào bể ái dục. Dakùlaka không hề giết cá hay nai hươu, cũng không hề bán các thứ cá mà người khác mang đến cho cậu.

Cuối cùng cha mẹ cậu bảo: Con sinh ra trong gia đình săn bắn mà con lại không thích sống trong nhà, cũng không sát sinh hại vật, vậy con muốn gì?

Cậu đáp: Nếu cha mẹ cho phép, con xin làm ẩn sĩ ngay ngày hôm nay. Cha mẹ họ đều cho phép họ ngay lập tức. Thế là họ từ giã cha mẹ, ra đi dọc theo bờ sông Hằng, rồi rời bỏ sông Hằng, họ đi lên núi dọc theo sông Migasammatà. Lúc bấy giờ cung của Sakka Thiên Chủ bỗng nóng rực lên.

Thiên Chủ Sakka, sau khi xác định duyên cớ, liền bảo thần Vissakamma: Này Vissakamma, có hai bậc Đại Nhân đã xuất thế và đang đi vào núi Himavat, chúng ta phải tìm nơi trú ẩn cho họ, vậy hãy đi dựng am lá và cung cấp mọi vật dụng cần thiết cho cuộc đời tu hành của họ ở một nơi cách sông Migasammatà chừng một phần tư dặm đường, xong rồi trở lại đây.

Thế là vị này đi chuẩn bị đủ mọi vật dụng giống như được mô tả trong Tiền Thân Mùgapakkha, rồi trở về nhà. Sau khi đã xua hết mọi súc vật có thể gây ồn ào khó chịu trong rừng và mở một con đường mòn gần đó. Hai vị ẩn sĩ thấy có đường mòn liền theo đó đến am.

Khi Dukùlaka bước vào trong am, thấy đủ mọi vật dụng cần thiết liền kêu lên: Đây chính là lễ vật của Thiên Chủ Sakka cúng dường ta. Thế rồi Dukùlaka cởi áo ngoài ra, mặc vào chiếc y màu vỏ dà, đắp tấm da hươu qua một bên vai, cột túm tóc lại ra dáng một vị khổ hạnh, rồi cũng làm lễ truyền giới cho Parikà như vậy, xong rồi họ sống ở đó, tu tập lòng từ thuộc về Cõi Dục.

Nhờ ảnh hưởng lòng Từ của họ đối với mọi vật, chim muông và thú rừng cũng khởi lên lòng từ ái đối với nhau, chứ không hề làm hại lẫn nhau.

Parikà lo kiếm nước và thức ăn, quét dọn am, làm đủ mọi việc cần thiết, rồi cả hai người đi kiếm đủ loại trái cây về ăn. Sau đó họ ở vào trong thảo am riêng của mình hành trì đủ mọi giới luật của đời phạm hạnh. Thiên Chủ Sakka cung cấp đủ mọi nhu cầu của họ.

Một ngày kia, Ngài Tiên tri được một hiểm họa sắp xảy ra cho họ: Họ sẽ mất thị giác.

Vì thế Ngài tìm đến Dukùlaka, đảnh lễ xong, ngồi xuống một bên, Ngài bảo: Thưa Tôn Giả, ta thấy trước một hiểm họa sắp đe dọa các Tôn Giả, vậy các Tôn Giả phải sinh một đứa con trai để phụng dưỡng các vị sau này, hãy đi theo đường lối của thế gian.

Thưa Thiên Chủ, tại sao Ngài lại bảo vậy?

Ngay cả khi chúng con còn ở chung một nhà trước kia, chúng con cũng đã chán ghét ái dục, giờ đây làm sao chúng con thực hiện điều ấy được khi chúng con đã vào rừng sống đời phạm hạnh của kẻ xuất gia. Được rồi, nếu Tôn Giả không muốn làm như ta nói, thì đợi đến lúc thuận tiện hãy lấy tay sờ rốn của Parikà.

Dukùlaka ưng thuận làm theo. Thiên Chủ Sakka từ giã ra về. Bậc Đại Sĩ kể chuyện ấy với Parikà và đến lúc thời cơ thuận lợi, lấy tay sờ vào rốn Parikà.

Ngay lúc ấy Bồ Tát từ Thiên Giới xuống nhập vào bụng bà và bà mang thai từ đó. Sau mười tháng, bà hạ sinh một hài nhi da vàng óng, vì thế nên họ đặt tên là Suvannasàma Hoàng Kim.

Lúc bấy giờ các Nữ Thần Kinnara Khẩn Na La: Ca thần của Sakka ở núi bên kia đến chăm sóc Parikà lúc bà lâm bồn. Đôi cha mẹ này tắm rửa hài nhi xong đặt vào chòi lá và đi kiếm đủ loại trái cây.

Trong khi họ ra ngoài, các Nữ Thần Kinnara đem hài nhi vào động của họ tắm rửa và đem lên đỉnh núi trang hoàng cho hài nhi đủ loại hoa, lấy chất sơn vàng đỏ xanh làm dấu đặc biệt trên thân thể, rồi đem về để lại trên giường trong chòi lá, sau đó Parikà về chòi cho con bú.

Họ yêu quý con, nâng niu chăm sóc con cho đến năm mười sáu tuổi, họ thường để con ở trong chòi rồi đi vào rừng kiếm củ và trái cây.

Bồ Tát suy nghĩ: Mối hiểm họa một ngày kia sẽ xảy ra. Ngài thường canh chừng con đường cha mẹ Ngài đi ra. Một ngày kia họ trở về lúc chiều tối sau khi đã nhặt củ và trái cây. Vừa đến gần chòi thì một đám mây lớn kéo tới.

Họ vội ẩn mình dưới gốc cây trên một ổ kiến. Trong ổ kiến này có một con rắn độc. Lúc bấy giờ nước trên thân họ nhỏ giọt xuống mang theo mùi mồ hôi đến mũi con rắn làm nó tức giận, thổi phà hơi độc lúc họ đứng đó để tấn công họ, khiến cho cả hai đều bị mù không nhìn thấy nhau được nữa.

Dukùlaka gọi lớn Parikà: Mắt ta mù rồi, ta không thấy nàng nữa. Họ bảo nhau trong khi quờ quạng đi quanh, khóc lóc và không sao tìm được lối về.

Đời trước ta đã phạm tội gì?

Họ nhủ thầm như vậy. Thuở tiền kiếp, họ sinh vào gia đình một y sĩ.

Vị y sĩ đó chữa bệnh mắt cho một người giàu có, nhưng người này không chịu trả y phí, vị y sĩ tức giận nói với vợ: Ta phải làm sao đây?

Bà vợ cũng tức giận bảo: Ta không cần tiền của nó, cứ chế ra một thứ thuốc rồi bảo đó là thuốc chữa bệnh và ta làm mù mắt nó đi. Vị y sĩ đồng ý làm theo lời vợ và chính vì tội này mà giờ đây cả hai đều bị mù lòa.

Lúc ấy bậc Đại Sĩ suy nghĩ: Trước đây cha mẹ ta thường về vào giờ này, ta chẳng biết chuyện gì xảy ra cho cha mẹ ta, ta phải đi tìm mới được. Vì thế Ngài ra đi tìm họ và gây nên một tiếng động.

Họ nhận ra tiếng động ấy nên cũng làm một tiếng động đáp lại và vì lòng thương con, họ bảo con: Sàma ơi, ở đây nguy hiểm lắm, đừng tới gần. Vì thế Ngài đưa cho cha mẹ một cây dài, bảo họ cầm lấy đầu cây gậy rồi đi lần về phía Ngài.

Ngài bảo với họ: Cha mẹ bị mù mắt vì duyên cớ gì?

Khi Trời mưa ta núp dưới gốc cây trên một tổ kiến, thế là ta bị mù mắt. Nghe thế Ngài biết ngay sự việc đã xảy ra. Có lẽ ở đó có rắn độc, đang lúc nổi giận, nó phun nọc độc ra đấy. Khi Ngài nhìn cha mẹ, Ngài bật khóc rồi lại bật cười.

Cha mẹ Ngài hỏi tại sao, Ngài đáp: Con khóc vì cha mẹ bị mù lúc còn trẻ, nhưng con lại cười vì từ đây con sẽ phụng dưỡng cha mẹ, cha mẹ đừng buồn, con sẽ chăm nom cha mẹ chu đáo.

Thế rồi Ngài dẫn họ về chòi, buộc dây thừng tứ phía phân chia các gian để ở ban ngày và ban đêm, các trai phòng và các phòng khác nữa. Từ ngày ấy Ngài bảo cha mẹ ở nhà, còn Ngài đi kiếm củ và trái rừng.

Buổi sáng dọn dẹp nhà cửa, đi lấy nước sông Migasammatà về, nấu thức ăn và nước, rồi lấy nước rửa mặt đánh răng cho cha mẹ, đem đến cho cha mẹ đủ trái cây ngon ngọt.

Khi cha mẹ súc miệng xong, Ngài mới dùng. Ăn xong Ngài chào cha mẹ, rồi được một đàn nai hộ tống, Ngài vào rừng hái quả.

Sau khi hái quả cùng với đám Nữ Thần Kinnara trên núi, Ngài trở về lúc chiều tối, nấu nước nóng tắm rửa chân tay cho cha mẹ rồi mang lại một mẻ chậu than hồng hơ ấm tay chân cha mẹ.

Ngài đem đủ loại trái cây cho cha mẹ dùng. Cuối cùng Ngài mới ăn phần mình và cất dọn các thứ còn lại. Cứ thế Ngài chăm sóc cha mẹ mỗi ngày.

Lúc ấy có một vị Vua tên Pilliyakkha trị vì tại Ba La Nại. Vị này rất thích thịt thú rừng nên đã giao việc triều chính cho mẹ rồi nai nịt năm loại vũ khí đi vào núi Himavat săn bắn hươu nai để ăn thịt, tiến lần đến con sông Migasammatà và cuối cùng tới nơi Sàma thường xuống múc nước.

Thấy có vết chân hươu nai, Vua dựng chỗ trú ẩn dưới các bụi cây màu ngọc bích, lấy tên tẩm thuốc độc vào, sẵn sàng giương lên và nằm mai phục.

Buổi chiều bậc Đại Sĩ đã hái trái cây xong, đem về lều, chào hỏi cha mẹ rồi nói: Con sẽ đi tắm và múc ít nước. Ngài cầm bình, cả một đoàn nai vây quanh, Ngài chỉ chọn ra hai con, buộc bình vào lưng chúng, rồi dẫn chúng đến nơi tắm sông.

Nhà Vua thấy Ngài đến gần tự nhủ: Suốt thời gian ta đi quanh quẩn nơi đây, ta chưa hề thấy bóng người nào cả, vậy đó là Thiên Thần hay rắn thần?

Bây giờ nếu ta đến gần hỏi nó ắt nó sẽ bay lên Trời nếu đó là Thiên Thần, hoặc sẽ độn thổ nếu đó là rắn thần. Nhưng ta có ở núi Himavat này mãi đâu, một ngày kia ta sẽ trở về Ba La Nại.

Lúc đó các quan Đại Thần sẽ hỏi ta có thấy được việc gì kỳ lạ trong thời gian ta lang bạt ở đây không. Nếu ta bảo họ ta có thấy một người như vầy như vầy, họ sẽ gạn hỏi ta tên nó là gì, nếu ta trả lời không biết thì họ sẽ chê trách ta. Vậy thì ta cứ bắn nó cho bị thương, rồi hỏi nó sau.

Vừa lúc ấy, bầy nai đi xuống trước để uống nước rồi bước lên khỏi chỗ tắm. Sau đó Bồ Tát chầm chậm bước xuống nước như thể một vị đại Trưởng Lão đầy đủ giới luật uy nghi đang chuyên tâm đạt đại định, khoác bộ áo bằng vỏ cây và đắp tấm y bằng da nai qua một bên vai, nhấc bình lên múc đầy nước, rồi đặt trên vai trái.

Ngay lúc này, Vua thấy rằng đã đến thời, liền bắn mũi tên tẩm thuốc độc, làm bậc Đại Sĩ bị thương ở sườn bên phải, rồi mũi tên xuyên qua sườn bên trái.

Bầy nai thấy Ngài bị thương kinh hoàng chạy trốn, nhưng Suvannasàma, mặc dù bị thương nặng, vẫn hết sức giữ bình nước cho vững và cố định thần, Ngài chầm chậm bước ra khỏi nước.

Ngài đào cát chất lên một ụ cao, kê đầu lên hướng về phía chòi của cha mẹ, và Ngài nằm xuống chẳng khác nào một bức tượng vàng trên bãi cát màu sáng bạc.

Rồi hồi tưởng lại, Ngài suy xét mọi việc đã xảy ra: Ta không có kẻ thù nào trong vùng núi Himavat này, ta cũng không thù oán ai cả.

Khi Ngài nói như vậy, máu từ miệng Ngài tuôn ra và vì không nhìn thấy Vua, Ngài liền ngâm kệ:

Ai đó đang mai phục bắn mình,

Khi ta đã múc nước đầy bình,

Bà La Môn, quý tộc, nô lệ,

Ai ám hại ta chẳng biết danh?

Rồi Ngài ngâm thêm một vần kệ cho biết thịt của Ngài vô dụng, không làm thức ăn được:

Người chẳng thể nào ăn thịt ta,

Cũng không thể sử dụng bao da,

Sao người nghĩ lấy ta làm đích,

Người đã tưởng đâu thắng lợi mà?

Ngài lại ngâm thêm một vần kệ khác hỏi họ tên của Vua:

Người là ai, hãy nói con ai,

Là gì ta sẽ gọi tên người,

Tại sao người lại nằm mai phục?

Thành thật xin người hãy trả lời.

Khi nghe vậy, Vua tự nhủ:

Mặc dù kẻ này đã bị ta bắn trọng thương bằng tên độc, vẫn không mạ lỵ ta, oán trách ta, lại còn nói năng dịu dàng như thể ru lòng ta vậy. Thôi ta đến xem sao.

Thế là Vua đến gần bên Ngài và ngâm kệ:

Chúa tể Kà si quốc chính ta,

Đại Vương Danh Hiệu Pi yak kha,

Ta rời ngôi báu vì thèm thịt,

Thơ thẩn tìm nai rừng núi xa.

Tài thiện xạ ta thật khéo thay,

Tâm ta can đảm chẳng lung lay,

Chẳng rồng rắn thoát tên ta được

Khi nó đã vào tầm bắn đây.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần