Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Mười - Chuyện Tiền Thân đức Phật - Chương Hai Mươi Hai - Phẩm Sáu - Phần Hai
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán
PHẬT THUYẾT KINH TIỂU BỘ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
An Thế Cao, Đời Hậu Hán
TẬP MƯỜI
CHUYỆN TIỀN THÂN ĐỨC PHẬT
CHƯƠNG HAI MƯƠI HAI
PHẨM SÁU
CHUYỆN BẬC ĐẠI TRÍ
MAHÀNÀRADA KASSAPA
TIỀN THÂN MAHÀNÀRADA KASSAPA
PHẦN HAI
Sau khi Thuyết Pháp trong sáu bài kệ ấy xong, công chúa bày tỏ nỗi khổ đau mà nàng phải chịu đựng trong các tiền thân xa xưa: Tiện nữ cũng nhớ lại bảy đời trước mà tiện nữ đã trải qua và khi hết đời này tiện nữ lại sẽ trải qua bảy đời khác nữa. Trong đời thứ bảy, trước kia, tâu Phụ Vương, tiện nữ là con trai của một thợ rèn trong thành Ràjagaha Vương Xá ở xứ Magadha Ma Kiệt Đà. Tiện nữ đã kết giao với bạn ác và đã gây nhiều ác nghiệp.
Chúng con cứ mải mê rong chơi, lôi cuốn vợ người khác vào đường tội lỗi như thể chúng con được trường sanh bất tử vậy. Những hành nghiệp ấy cứ âm ỉ như lửa được vùi tro.
Nhờ những nghiệp quả tốt khác, con đầu thai vào xứ Vamsa trong gia đình một phú thương ở Kosambi, rất thế lực và giàu có, phát đạt: Con lại là con trai duy nhất của gia đình, được cưng chiều quý trọng vô cùng. Lúc ấy con kết bạn với một người chuyên làm thiện Pháp. Con hành trì trai giới suốt các ngày mười bốn và rằm và các hành nghiệp ấy được tồn trữ lại như một kho tàng dưới nước.
Nhưng những nghiệp quả ác mà con đã tạo ở xứ Ma Kiệt Đà rốt cuộc lại đến với con như một thứ thuốc độc khốc liệt. Tâu Phụ Vương, từ đó con phải trải qua một thời gian dài ở địa ngục Roruva, con phải chịu đựng các nghiệp quả ác ấy, ngày nay nhớ lại con còn thấy thật đau khổ.
Sau khi chịu khổ sở tại đó không biết bao nhiêu năm trường, con đã hóa sinh thành con dê bị thiến ở thành Bhennàkata. Con phải chuyên chở các thanh niên nhà giàu trên lưng hoặc kéo xe, đó là nghiệp quả của việc con đã quyến rũ vợ người.
Sau đó con đầu thai vào bụng một con khỉ rừng, ngày con sinh ra đời, họ đem con đến cho người chăn thú, người này bảo: Mang con trai ta đến đây. Rồi gã cắn mạnh hạ căn của con cho đứt lìa dù con kêu thét lên.
Nàng diễn tả sự việc này qua vần kệ sau:
Khi hết đời kia con được sinh,
Đầu thai làm khỉ chốn rừng xanh,
Hạ căn đứt bởi người gian ác,
Hậu quả do săn đuổi bạn tình.
Kế đó nàng thuật tiếp các tiền thân khác:
Tâu Phụ Vương, sau đó con đã đầu thai làm con bò đực ở xứ dân Dasannas, lại bị hoạn nhưng cũng nhanh nhẹn và xinh đẹp, con kéo xe một thời gian thật lâu, đó là nghiệp quả của việc săn đuổi theo vợ người của con trước kia.
Khi mạng chung, con đầu thai vào một gia đình xứ Vajji Bạt kỳ, ở phía bắc Sông Hằng, đối diện xứ Ma Kiệt Đà, song con lại bán nam bán nữ vì thật khó đầu thai làm nam nhân, đó là nghiệp quả của việc con theo đuổi vợ người.
Tâu Phụ Vương, sau đó con đã sinh vào rừng Nandana làm một Tiên Nữ rất xinh đẹp ở cõi Tam Thập Tam Thiên Trời Ba Mươi Ba xiêm y rực rỡ muôn màu, mang nữ trang ngọc vàng, vòng hoa tay bằng châu báu đủ loại thiện xảo múa ca nên được làm thị nữ ở cung Đế Thích.
Khi con ở đó, con đã nhớ lại các đời trước và luôn cả bảy đời tương lai mà con sẽ trải qua, sau khi từ giã Thiên Giới.
Các thiện Pháp mà con tạo được ở Kosambì đã đến hồi kết quả, nên khi con hết đời này con sẽ được sinh cùng với Chư Thiên hoặc loài người.
Tâu Phụ Vương, trong bảy đời liền, con sẽ được cung kính phụng thờ, nhưng con sẽ không được thoát thân nữ nhân cho đến hết đời thứ sáu.
Tâu Phụ Vương, như vậy trong đời thứ bảy, con sẽ là một Đại Nam Tử của Chư Thiên, sau cùng con sẽ được sinh làm một Thiên Tử với thân tướng nam nhi.
Hiện nay, Chư Thiên đang kết tràng hoa hái từ cây hoa Trời ở vườn Thiên lạc Nandana và có một vị Thiên Tử tên gọi Java, hiện đang kết tràng hoa cho con. Mười sáu năm con sống ở đời thế gian này chỉ là một khoảnh khắc của Thiên Giới.
Một trăm mùa thu ở hạ giới chỉ bằng một ngày một đêm ở trên Trời. Như vậy các hành nghiệp của ta cứ theo ta hoài qua vô số đời sống và mang theo thiện quả hay ác quả, không sót một nghiệp nào.
Rồi kế đó nàng tuyên Pháp Tối thượng: Kẻ nào muốn thăng hoa đời đời kiếp kiếp, xin hãy tránh xa vợ người như người có đôi bàn chân rửa sạch phải tránh xa vũng bùn. Kẻ nào muốn lên cõi trên đời đời kiếp kiếp, xin hãy tôn thờ Đức Thế Tôn như Chư Thiên phụng thờ Thiên Chủ Indra.
Kẻ nào muốn hưởng Thiên lạc, hưởng cuộc sống nơi Thiên Giới với đầy đủ vinh quang hạnh phúc, xin hãy tránh xa tội ác và hành trì Tam Pháp: Phải hộ phòng và minh triết trong thân, khẩu, ý, tu tập thiện pháp tối cao, dù là nam nhân hay nữ nhân cũng vậy. Kẻ nào được vinh quang trong đời này và được hưởng đủ mọi dục lạc, chắc chắn kẻ ấy đã sống cuộc đời đạo hạnh ở kiếp trước. Mọi chúng sanh đều phải đi theo nghiệp thiện ác của mình.
Tâu Phụ Vương, Phụ Vương có bao giờ suy nghĩ hạnh nghiệp gì đã khiến Phụ Vương thọ hưởng đám cung phi đẹp như tiên trên Trời lại trang sức xiêm y ngọc vàng rực rỡ thế kia chăng?
Nàng khuyên bảo Vua Cha như vậy.
Bậc Đạo Sư giải thích sự việc như sau: Công chúa Rujà đã làm đẹp lòng Vua Cha như thế, nàng tuyên thuyết chánh đạo cho kẻ mê mờ ấy và thành tâm giảng pháp lành cho Vua Cha.
Sau khi đã giảng Pháp cho Vua Cha nghe suốt đêm đến rạng ngày hôm sau, nàng bảo: Tâu Phụ Vương, xin đừng nghe lời kẻ tà thuyết lõa thể kia, mà hãy theo lời bạn lành như con đây đang tâu với Phụ Vương rằng có đời này và đời sau, có nghiệp quả thiện, ác. Xin Phụ Vương đừng lạc vào tà đạo.
Tuy nhiên nàng vẫn chưa đủ khả năng giải thoát Vua Cha khỏi tà thuyết của Ngài: Ngài chỉ đẹp ý khi nghe những lời lẽ êm dịu của con, vì các bậc cha mẹ tự nhiên yêu thích lời lẽ con cái họ, nhưng họ lại không chịu từ bỏ những ý kiến riêng của mình.
Thế là trong Kinh Thành vang lên lời đồn đãi: Công chúa Rujà đang cố đánh tan các tà kiến bằng cách giảng chánh pháp.
Và dân chúng rất hoan hỷ: Công chúa hiền đức sẽ giải thoát Vua Cha khỏi tà thuyết và sẽ đem lại phồn vinh cho dân chúng. Tuy nhiên dù công chúa chưa đủ khả năng làm Vua Cha tỉnh ngộ, nàng vẫn không ngã lòng thoái chí, mà nàng vẫn quyết tâm tìm phương tiện đem lại chân hạnh phúc cho Vua Cha.
Nàng chắp tay lên đỉnh đầu lễ bái khắp mười phương, nàng nguyện cầu: Trong thế gian này có vị Sa Môn và Bà La Môn chân chính phủ hộ người đời, có Chư Thiên ngự trị khắp nơi, lại có các vị Đại Phạm Thiên, kính xin các vị đến giúp cho Vua Cha của tiện nữ từ bỏ tà kiến hoặc nếu quý vị không có đủ tự lực.
Xin Quý Vị đến đây theo uy lực và công đức của tiện nữ để xua tan tà thuyết này và đem lại hạnh phúc cho toàn thể thế gian.
Lúc bấy giờ vị Đại Phạm Thiên của thuở đó là Bồ Tát tên gọi Nàrada và các vị Bồ Tát vì từ bi, lân mẫn và vì quyền uy tối thượng của các Ngài, thỉnh thoảng vẫn phóng nhãn quang nhìn các kẻ thiện người ác trên thế gian.
Ngày hôm ấy Ngài nhìn xuống thế gian thấy công chúa đang cầu nguyện Chư Thiên ngự trị khắp nơi đến giải thoát Vua Cha khỏi tà thuyết.
Ngài nghĩ thầm: Trừ ta ra không ai có thể xua tan tà thuyết được, ta phải đến ngay hôm nay tỏ lòng từ ái với công chúa và mang lại hạnh phúc cho Vua Cha cùng dân chúng.
Ta sẽ khoác bộ áo nào đây?
Các ẩn sĩ tu hành thường được người đời yêu kính, lời lẽ của các vị ấy thường được xem là đáng tín thọ, vậy ta sẽ khoác áo ẩn sĩ.
Thế là Ngài hóa ra hình tướng thế nhân rất khả ái, với làn da như vàng ròng, mái tóc bện lại được ghim bằng cây kim vàng, sau khi mặc chiếc áo được kết bằng nhiều tấm, màu vỏ dà, từ bên ngoài vào trong.
Ngài lại khoác lên vai tấm da nai đen làm bằng bạc lấm tấm điểm sao vàng ánh, tay cầm bình bát khất thực bằng vàng đeo lủng lẳng bằng một chuỗi ngọc, trên vai Ngài đặt chiếc đòn gánh bằng vàng có ba mấu, cầm bình nước bằng san hô buộc bằng chuỗi ngọc trai.
Với bộ trang phục ấy, Ngài liền phi thân qua bầu Trời chẳng khác nào vầng Trăng sáng rực giữa không gian, rồi bước vào thượng lầu của cung Canda, đứng sừng sững trước mặt Vua.
Bậc Đạo Sư giải thích việc này như sau: Lúc ấy Nàrada từ cõi Phạm Thiên xuống hạ giới, khi quan sát cõi Jambudìpa Diêm Phù Đề: Ấn Độ, Ngài nhìn thấy Vua Angati. Rồi Ngài đến trước cung Vua, nàng Rujà vừa trông thấy Ngài, vội đảnh lễ Bậc Hiền trí từ Thiên Giới giáng trần.
Vua choáng váng trước vẻ huy hoàng của vị Phạm Thiên, nên không thể ngồi yên trên ngai vàng mà vội bước xuống đất, hỏi lý do Ngài giáng lâm cùng Danh Hiệu gia tộc của Ngài.
Bậc Đạo Sư giải thích sự việc như sau: Lúc ấy Vua hoang mang trong trí, vội bước xuống ngai vàng, nói với Tôn Giả Narada những lời hỏi thăm:
Ngài đến từ đâu, dáng thánh thần,
Như vầng trăng chiếu sáng đêm trường,
Nói cho ta biết tên, gia tộc,
Người gọi là gì giữa thế nhân?
Nàrada nghĩ thầm: Vị Vua này không tin tưởng có đời sau, vậy ta phải nói cho Vua biết về đời sau.
Rồi Ngài ngâm kệ:
Ta đến đây từ hội Chúng Thiên,
Như vầng trăng chiếu sáng đêm đen,
Ta nêu danh tánh cùng gia tộc:
Ca Diếp, Nà Ra Da, họ tên.
Vua nghĩ thầm: Lát nữa ta sẽ hỏi Ngài về đời sau, bây giờ ta hãy hỏi Ngài về mục đích việc giáng trần vi diệu này.
Cách Ngài đi đứng diệu kỳ thay,
Ta hỏi Ngài: Đâu ý nghĩa đây,
Vì lý do gì Ngài thị hiện,
Nà ra da hỡi, thần thông này?
Bậc trí Nàrada đáp:
Chân thật, công bằng, chế ngự mình,
Rộng lòng bố thí đã lừng danh,
Nhờ công đức thực hành tinh tấn,
Như ý nguyện mình, ta lướt nhanh.
Ngay cả lúc Ngài nói như vậy, Vua cũng không thể tin vào đời sau bởi vì tà thuyết đã đâm sâu cội rễ vào trí Ngài.
Ngài liền hỏi: Có phần thưởng nào dành cho các thiện pháp chăng?
Rồi Vua ngâm kệ:
Ngài đã nói điều kỳ diệu thay,
Khi nêu công lực thiện hành vậy.
Nếu điều này đúng như Ngài nói,
Xin trả lời cho trẫm thẳng ngay.
Nàrada đáp:
Đây việc của Ngài, hỡi Đại Vương,
Hỏi ta điều cảm thấy nghi nan,
Hiển nhiên ta đáp cho Ngài rõ,
Nhờ lý luận, bằng chứng rõ ràng.
Vua liền hỏi:
Nà ra da, trẫm hỏi điều này,
Đừng trả lời sai câu hỏi đây:
Thật có Chư Thiên hay Tổ Phụ,
Đời sau như bọn chúng đồn vậy?
Nàrada đáp:
Thật có Thiên Thần với Tổ Tiên,
Đời sau, như chúng vẫn nêu lên,
Nhưng người tham dục và mê đắm,
Không biết đời sau bởi đảo điên.
Khi nghe điều này, Vua cười to và ngâm kệ:
Nà Ra Da, nếu đã tin rằng:
Có cõi cho người chết trú thân,
Đưa trẫm năm trăm đồng bạc gấp,
Đời sau trẫm sẽ trả ngàn đồng.
Thế rồi bậc Đại Sĩ đáp lời, khiển trách Vua ngay giữa hội chúng:
Ta đưa Ngài đủ số năm trăm,
Nếu biết Ngài hiền đức, rộng lòng,
Nhưng nếu Ngài là người độc ác,
Đọa vào trong địa ngục đày thân,
Còn ai đòi được Ngài đem trả,
Đời kế, ngàn đồng ấy được không?
Khi một người thù ghét thiện lương,
Chỉ yêu tội lỗi lại hung tàn,
Trí nhân chẳng muốn cho vay mượn,
Kẻ nợ ấy không thể đáo hoàn.
Khi người ta biết kẻ tài năng,
Đức Hạnh, tinh chuyên, lại rộng lòng,
Họ sẽ mời người kia mượn của,
Bằng nhiều lợi lạc họ đem dâng.
Khi người kia đã làm xong việc,
Người sẽ bồi hoàn nợ đã mang.
Vua bị quở trách như vậy vẫn chưa chuẩn bị sẵn câu trả lời nào cả.
Hội chúng rất hoan hỷ reo to: Tâu công chúa, công chúa có thần lực vi diệu thay, công chúa sẽ giải thoát Đại Vương khỏi tà thuyết ngay hôm nay. Và cả Kinh Thành chấn động lên. Rồi nhờ thần lực của bậc Đại Sĩ, không một ai ở trong phạm vi bảy dặm đường quanh thành Mithilà không được nghe Ngài thuyết pháp.
Lúc ấy bậc Đại Sĩ suy nghĩ: Nhà Vua đã quá chấp thủ tà thuyết, ta sẽ làm cho Vua hiểu nỗi kinh hoàng của địa ngục mà bỏ tà thuyết đi, sau đó ta sẽ trấn an Vua bằng Cõi Chư Thiên.
Rồi Ngài bảo Vua: Tâu Đại Vương, nếu Đại Vương không bỏ tà thuyết ấy đi, Đại Vương sẽ bị đọa vào địa ngục chịu thống khổ không ngừng.
Và Ngài bắt đầu kể đến các loại địa ngục khác nhau:
Đại Vương, khi giã biệt đời này,
Ngài sẽ thấy diều quạ cả bầy,
Vồ xé xác Ngài trong Địa Ngục,
Và kên kên nữa máu me đầy,
Còn ai bắt được Ngài đời kế,
Đem trả ngàn đồng ấy đã vay?
Sau khi tả địa ngục diều quạ xong, Ngài nói tiếp:
Nếu Đại Vương không đọa vào đó, Đại Vương phải ở trong địa ngục nằm giữa ba cõi Àvici: Vô gián địa ngục.
Rồi Ngài ngâm kệ miêu tả địa ngục ấy:
Ở đó tối tăm thật mịt mùng,
Và không vầng nhật hoặc vầng trăng,
Ngục này hỗn độn và kinh khủng,
Chẳng biết ngày đêm, chẳng tháng năm,
Còn kẻ nào mong đòi món nợ,
Ở nơi như vậy nữa hay chăng?
Sau khi tả địa ngục ở giữa ba cõi ấy thật đầy đủ chi tiết.
Ngài bảo: Tâu Đại Vương, nếu Đại Vương không chịu bỏ tà thuyết ấy, không những Đại Vương chịu khổ hình này mà còn nhiều khổ hình khác nữa.
Rồi Ngài ngâm kệ:
Con chó Sa ba dáng khổng lồ,
Cùng Sà ma lực lưỡng nhào vô,
Dùng răng cắn xé người tan xác,
Kẻ đọa từ đây đến ngục tù. Các địa ngục kể tiếp cũng có cùng một quy luật như vậy.
Vì thế các địa ngục này và các cai ngục được Ngài mô tả qua các bài kệ thật súc tích những ngôn từ tượng hình như trong các đoạn trên:
Vậy khi ở ngục bị tan thân,
Vì thú dữ hành hạ bạo hung,
Thân xác tả tơi, dòng máu chảy,
Còn ai đòi trả nợ ngàn đồng?
Với cung tên, nhọn hoắc giáo gươm,
Quỷ sứ Kà lù tựa địch nhân,
Đâm chém trọng thương người phải đọa,
Trước kia phạm tội ở nhân gian.
Trong khi kẻ ấy chạy lang thang,
Trong ngục, bị đâm ở bụng, sườn,
Gan ruột nát tan dòng máu chảy,
Ai mong đòi nó một ngàn đồng?
Trời mưa xuống các loại tên, đao,
Các khí cụ hành tội: cọc, lao,
Đám lửa rơi như than cháy bỏng,
Trời mưa đá tảng trút ào ào.
Luồng gió nóng ran thật hãi hùng,
Thổi vào trong ngục tối không cùng.
Không vì vui thú dù giây lát,
Nó chạy quanh, không chốn trú thân.
Còn ai muốn bắt người kia trả,
Đời kế ngàn đồng ấy được không?
Bị buộc vào xe, vội chạy nhanh,
Trên nền đất rực lửa hoành hành,
Biết bao gậy ngắn, dài kiềm thúc,
Ai muốn đòi ngàn bạc cho đành?
Khi trèo leo lên ngọn núi kinh hoàng,
Lởm chởm lưỡi dao, xé nát thân,
Máu chảy đầm đìa, ai sẽ muốn,
Đời sau đòi nó một ngàn chăng?
Khi nó trèo lên một đống than,
Đỏ hừng như núi lửa kinh hoàng,
Toàn thân cháy, thét gào, đau khổ,
Ai muốn đòi ngàn bạc ấy chăng?
Lớp gai dày đặc tựa tầng mây,
Có cọc nhọn đâm hút máu ngay,
Những bọn đuổi săn vợ kẻ khác,
Phải trèo lên đó, bị từng bầy,
Quỷ Diêm La chúa luôn xua đuổi
Mang các giáo dài ở dưới tay.
Khi nó trèo lên cây vải bông,
Toàn thân đầy máu chảy ròng ròng,
Tả tơi thống khổ luôn xâu xé,
Hổn hển thở than thật nực nồng,
Để đền tội ác xưa như vậy.
Ai muốn đòi tiền nợ cũ không?
Có những rừng cao tựa đám mây,
Lá rừng là kiếm sắt tràn đầy,
Thiết đao uống máu người đày đọa.
Khi nó trèo lên đám lá cây,
Thân nó bị cưa bằng kiếm sắt,
Nát tan, máu chảy hãi hùng thay!
Ai mong đòi nó trong đời kế,
Trả nợ ngàn đồng nó đã vay?
Khi nó thoát ra khỏi ngục này,
Phủ đầy lá sắt giữa rừng cây,
Liền rơi vào giữa dòng sông nọ,
Ai muốn đòi tiền nợ cũ đây?
Dòng sông chảy xiết Vetaran,
Khốc liệt, nước sôi sục ngập tràn,
Bao phủ lá, hoa sen bén nhọn,
Trong khi nó bị đuổi trên sông,
Máu me bao phủ, tay chân đứt,
Dòng nước Vetaran hãi hùng,
Chẳng có một nơi nào trú ẩn,
Ai mong đòi nợ nó hay không?
Vua muốn tìm nơi an trú, liền nói với Ngài: Thưa bậc Trí Giả, trẫm run sợ như cây đang bị đốn ngã, tâm trí hoang mang bối rối, trẫm không biết hướng về đâu, trẫm đang bị dày vò khủng khiếp, nỗi kinh hoàng của trẫm thật gớm ghê khi trẫm nghe Ngài ngâm các bài kệ trên đây.
Như một vật đang cháy được ném vào nước, như một hòn đảo giữa đại dương đầy bão tố, như một ngọn đèn trong đêm tối, Ngài chính là nơi an trú của trẫm vậy. Xin bậc trí giả hãy dạy cho trẫm Thánh Kinh, cùng thâm nghĩa của nó.
Quá khứ của trẫm thật là đầy tội lỗi, xin bậc Đại Trí Giả Nàrada chỉ dạy cho trẫm con đường rửa sạch tội lỗi để cho trẫm khỏi đọa vào địa ngục.
Sau đó bậc Đại Sĩ dạy Vua con đường rửa sạch tội lỗi bằng cách nêu gương các bậc Tiên Vương đã hành trì Chánh Đạo: Các vị Vua Dhatarattha, Vessàmitta, Atthaka, Yàmataggi và Usinnara cùng Vua Sivi và nhiều vị khác, nhờ chuyên tâm cúng dường các Sa Môn và Bà La Môn nên đã được lên Thiên Giới của Sakka Thiên Chủ. Vậy Đại Vương cũng phải tránh tà hạnh và theo chánh hạnh.
Hãy cho người mang thực phẩm trên tay rao lên trong cung Đại Vương: Ai đang đói khát đây?
Ai đang cần vòng hoa và dầu thơm?
Kẻ nào lõa thể mong muốn mặc xiêm y trang hoàng đầy châu báu?
Kẻ nào có muốn lọng che để đi đường và giầy thanh lịch êm chân?
Đại Vương hãy cho người rao như vậy khắp kinh thành từ sáng đến tối. Đừng bắt người già hay trâu già, ngựa già phải làm việc nặng nhọc. Đối với các hạng ấy, phải quý trọng đúng mức vì khi họ còn khỏe mạnh, họ đã hoàn thành sứ mạng được giao phó.
Như vậy bậc Đại Sĩ, sau khi thuyết giảng cho Vua về bố thí rộng lượng và đức hạnh, thấy rằng Vua sẽ hoan hỷ khi được ví với một cỗ xe, nên Ngài tiếp tục thuyết Pháp cho Vua qua hình ảnh một cỗ xe như ý ban mọi điều ước: Thân của Đại Vương được ví như một cỗ xe, đoạn trừ mọi ác tâm chính là trục xe, có lòng bố thí đại lượng là cái trần xe, bước đi thận trọng là sườn xe, hộ trì dục tâm là chính danh bánh xe, hộ trì khẩu căn chính là giữ cho bánh xe khỏi kêu cọc cạch.
Mọi bộ phận đều được giữ gìn hoàn hảo nhờ khẩu hành chân thật, gắn liền tốt đẹp với sự từ bỏ nói hai lưỡi, cái sườn xe êm ái với lời nói thân hữu kết hợp hài hòa với ngôn ngữ cân nhắc thật kỹ lưỡng.
Xây dựng vững chắc bằng lòng tịnh tín và đoạn trừ tâm tham, với lòng cung kính đảnh lễ đầy khiêm tốn chính là gọng xe, với càng xe nhẹ nhàng, nhu thuận, với dây cương tự điều phục thân tâm theo ngũ giới, cùng với chìa khóa đoạn trừ sân tâm, chiếc gọng xe trắng của lòng công chính, xe được lái đi nhờ sự thông suốt bốn mùa khác nhau.
Với ba chiếc gậy bảo vệ lòng tịnh tín bất động, lời nói khiêm tốn chính là chiếc roi da, đoạn trừ hư danh chính là sợi dây cương, với sự hỗ trợ của tâm niệm xả ly không chấp thủ đi theo chánh trí và giải thoát mọi trần cấu.
Hãy dùng trí giác làm động cơ thúc đẩy Ngài, hành trì nhất tâm để chế ngự mọi luyến ái. Tâm tư theo đúng đạo lộ tự điều phục cùng với mọi tuấn mã đã được huấn luyện thuần phục. Dục vọng và tham đắm đều là tà đạo, tự điều phục là chánh đạo.
Khi con ngựa chạy theo sắc, thanh, hương, vị, thì trí tuệ phải dùng roi trừng phạt và tâm chính là người lái xe. Nếu ta đồng hành với cỗ xe, nếu trí thanh tịnh và nhất tâm bền vững mãi như thế, ta sẽ đạt mọi nguyện ước, tâu Đại Vương, ta không thể nào đọa địa ngục.
Như vậy, tâu Đại Vương, ta đã dùng nhiều cách trình bày cùng Đại Vương nhiều đạo lộ đưa đến hạnh phúc, an lạc mà Ngài đã yêu cầu Nàrada nói rõ để khỏi đọa địa ngục ở đời sau.
Sau khi thuyết giảng chánh pháp cho Vua và phá tan mọi tà kiến cùng an trú Vua vào giới hạnh, Ngài lại khuyên Vua từ nay xa lánh bạn ác, thân cận với bạn lành và cẩn trọng trong mọi bước tiến.
Rồi Ngài tán thán mọi đức hạnh của công chúa, nói lời khích lệ cả Triều Đình cùng các cung phi xong, Ngài liền bay về Phạm Thiên Giới với thần lực vĩ đại siêu phàm.
Sau khi chấm dứt Pháp thoại, bậc Đạo Sư bảo: Này các Tỳ Kheo, không những ngày nay, mà từ xưa, Ta đã giáo hóa Uruvela Kassapa và phá tan lưới tà kiến vây chặt vị ấy.
Rồi Ngài nhận diện tiền thân qua các vần kệ cuối cùng:
Đề bà đạt chính Alàta,
Bhad da ji chính Sunama,
Vi ja ya là Xá Lợi Phất,
Su na kha, ẩn sĩ Guna,
Ru jà giáo hóa quân vương ấy,
Chính là thị giả A Nan Dà.
Bì ja ka chính Mục Kiền Liên,
Ca Diếp, Vua theo thuyết hão huyền,
Các ông hiểu bổn sinh như vậy,
Bồ Tát chính là Đại Phạm Thiên.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Phật Bổn Hạnh - Phẩm Hai Mươi - Phẩm Hiện đại Thần Biến - Tập Bốn
Phật Thuyết Kinh Khởi Thế - Phẩm Mười Một - Phẩm Thế Trụ
Phật Thuyết Kinh đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm - Phẩm Bốn - Phẩm Thế Giới Thành Tựu - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh Tam Muội Ngồi Thiền - Phần Hai - Pháp Môn Trị Sân Hận
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Bà La Môn - phần Một