Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Mười - Chuyện Tiền Thân đức Phật - Chương Hai Mươi Mốt - Phẩm Một - Phẩm Tám Mươi Bài Kệ Số Một - Chuyện đại Thiên Nga Tiền Thân Mahàhamsa - Phần Hai

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:19 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán

PHẬT THUYẾT KINH TIỂU BỘ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư 

An Thế Cao, Đời Hậu Hán  

TẬP MƯỜI

CHUYỆN TIỀN THÂN ĐỨC PHẬT  

CHƯƠNG HAI MƯƠI MỐT  

PHẨM MỘT  

PHẨM TÁM MƯƠI BÀI KỆ SỐ MỘT  

CHUYỆN ĐẠI THIÊN NGA

TIỀN THÂN MAHÀHAMSA  

PHẦN HAI  

Nghe vậy, người bẫy chim nói: Thưa các Ngài, các vị không nên mong ước diện kiến Đức Vua. Vua chúa quả thật là những người vô cùng nguy hiểm. Họ sẽ luyện các vị thành chim thuần thuần tính hoặc giết đi.

Sumukha liền đáp: Này hiền hữu bẫy chim, đừng bận lòng vì chúng ta. Nhờ thuyết pháp, ta đã khiến cho một người độc ác như ông phát khởi từ tâm.

Vậy sao ta không làm việc này với Vua?

Vua chúa đủ trí tuệ để hiểu lời chân thiện. Hãy mau đưa ta đến yết kiến Vua. Ông đừng đem chúng ta đi như đôi chim mắc bẫy, mà hãy đặt ta vào chiếc lồng hoa và đưa đi như vậy.

Hãy làm chiếc lồng lớn phủ sen trắng cho điểu Vương Dhatarattha và lồng nhỏ hơn phủ sen đỏ cho ta, đặt Ngài phía trước, ta phía sau, hơi thấp hơn một chút, rồi khẩn cấp đưa ta đi yết kiến Vua.

Khi nghe lời Sumukha, người bẫy chim suy nghĩ: Sumukha đến yết kiến Đức Vua chắc hẳn mong ta được đại vinh hiển. Lòng vô cùng hoan hỷ, gã làm đôi lồng bằng các cành liễu mềm phủ hoa sen, xong liền lên đường cùng với đôi chim theo cách miêu tả.

Bậc Đạo Sư ngâm kệ để làm sáng tỏ vấn đề:

Người săn chim nắm cả hai tay

Trong lúc được nghe nói thế này,

Liền đặt vào lồng đôi ngỗng đỏ

Sắc da vàng ánh đẹp như vậy.

Bộ lông ngời sáng, chúa thiên nga

Càng đẹp mắt trông, với Mục Kha,

Yên ổn trong lồng người đặt bẫy

Cầm lên cùng với ngỗng đi ra.

Ngay khi người bẫy chim lên đường cùng với đôi ngỗng, chim chúa Dhatarattha chợt nhớ đến Vương Hậu của mình là công chúa của thiên nga Vương Paka, do lòng tham ái chi phối, chim chúa than thở như vậy với Sumukha.

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

Nga Vương vừa mới được mang ra,

Liền nói như vậy vời Mục Kha:

Vương Hậu diễm kiều đầy quý tướng

Bây giờ đang khổ não vì ta.

Nếu nàng nghe nói rằng ta chết,

Ta sợ đời nàng cũng phải sa.

Như cò hương khóc bạn tình lang,

Đơn độc bên bờ vắng đại dương,

Rực rỡ, Su he da óng ả

Sẽ còn thương tiếc mãi Quân Vương.

Suhemà: tên Hoàng Hậu thiên nga.

Nghe vậy, Sumukha suy nghĩ: Thiên nga này, dù luôn sẵn sàng khuyến giáo kẻ khác, lại bị tham dục chi phối, tất cả chỉ vì chim mái, nên cứ lảm nhảm như nước đang sôi sùng sục, hoặc chẳng khác tiếng bầy chim từ bến bờ vụt lên rồi sà xuống mổ lúa trên ruộng!

Hay ta phải cố dùng trí tuệ nêu rõ cho Ngài thấy những thói xấu của nữ giới và làm Ngài tỉnh táo lại chăng?

Và chim này ngâm kệ:

Thiên nga vĩ đại, trí vô song,

Lãnh đạo anh minh của giống dòng,

Sao phải ưu phiền vì nữ giới,

Tỏ bày bao nhược điểm trong lòng.

Như gió mang đi đủ thứ mùi

Dù là thơm ngát hoặc tanh hôi,

Tham lam như trẻ thành mù quáng

Ăn thức còn tươi hoặc chín rồi.

Không xét suy chân chánh việc làm

Mê mờ, Ngài chẳng thấy trên đàng

Việc gì cần tránh, gì làm được,

Trong lúc sa cơ, gặp hiểm nàn.

Hóa dại, Ngài ca tụng má hồng

Có đầy vẻ diễm lệ say lòng.

Tầm thường, tuy vậy, là đa số,

Chẳng khác trà đình của túy ông.

Ưu phiền, bệnh tật với tai ương,

Như xích xiềng, gông, cực bạo tàn,

Ảo ảnh, dối gian và cạm bẫy

Tử thần cất kín tận tâm can.

Nữ nhân đều thế, ai tin chúng

Hạ liệt quả là nhất thế gian!

Lúc ấy chúa chim Dhatarattha đang say mê nữ giới, liền bảo: Hiền hữu không biết các đức tính của phái nữ, nhưng các Bậc Hiền trí biết rõ, nữ giới không đáng bị chỉ trích đâu.

Rồi Ngài giải thích qua các vần kệ:

Bậc trí nhìn chân lý rõ rành,

Còn ai khiển trách, dám phê bình?

Nữ nhân sinh ở trong trần thế

Để hưởng đặc quyền với đại danh.

Nhi nữ sinh ra để cợt đùa,

Tình yêu lạc thú được ban cho,

Hạt mầm nảy nở trong nhi nữ,

Nguồn gốc đời ta được hộ phò,

Từ đó nam nhân bừng nhịp thở,

Khó lòng khinh thị đám quần thoa.

Riêng khanh, Sư Mục, có tinh thông

Cung cách dung nghi đám má hồng,

Xúc động hãi kinh, khanh có thấy

Trí này sáng suốt muộn màng không?

Khi một nam nhân gặp bất an,

Giữa tai biến, chịu đựng can cường,

Trong cơn khủng hoảng bao hiền trí

Cố sức cho ta được thoát nàn.

Quân Vương muốn gặp bậc anh hùng

Để có người khuyên nhủ hộ phòng

Chống nỗi kinh hoàng do nghịch cảnh,

Giải bày thích đáng, cứu nguy vong.

Ta mong đầu bếp của hoàng gia

Đừng nướng thân ta đã xác xơ,

Như trái cây tre thường giết mẹ

Bộ lông vàng cũng giết đời ta.

Tự do, khanh chẳng muốn bay đi,

Tự nguyện giam cầm để cứu nguy,

Giờ phút hiểm nghèo, đừng nói nữa,

Hãy hoàn thành sứ mạng nam nhi.

Bằng cách tán tụng nữ giới, bậc Đại Sĩ đã làm cho Sumukha phải im lặng, nhưng khi thấy vị ấy buồn bực biết bao, giờ đây Ngài muốn hòa giải với bạn, liền ngâm kệ này:

Gắng sức làm sao thật đúng thời,

Với công bằng biện hộ như lời,

Anh hùng hành động, xin hiền hữu

Đem lại cho ta cả cuộc đời.

Lúc ấy Sumukha suy nghĩ: Ngài hết sức kinh hãi vì sợ chết. Ngài không biết uy lực của ta. Sau khi yết kiến Vua Ba La Nại và đàm đạo đôi điều với Vua, ta sẽ biết cách hành động.

Lúc này ta muốn an ủi Đại Vương của ta, và vị ấy ngâm vần kệ:

Nga Vương cao quý, chờ kinh hoàng,

kinh hãi chẳng là cách Đại Vương,

Với lẽ công bằng, thần nỗ lực

Khẩn cầu vời lý luận khôn ngoan,

Bằng hành động hết lòng can đảm

Lần nữa chúa công được thoát nàn.

Trong lúc hai vị đang nói chuyện với nhau bằng tiếng chim như vậy, người bẫy chim chẳng hiểu lời nào chim nói cả, cứ mang đôi chim trên đôi gánh đi vào thành Ba La Nại, gã được một đám đông theo sau vì tràn đầy thích thú kinh ngạc trước cảnh kỳ dị kia, họ đưa hai tay lên Trời với dáng điệu nguyện cầu. Khi đến hoàng môn, người bẫy chim nhờ trình Vua về việc gã đến chầu.

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

Người săn chim đến cổng hoàng gia,

Tiến lại gần cùng gánh nặng kia,

Trình tấu Đại Vương, thần yết kiến,

Thưa rằng đây chính hiệu hồng nga.

Người canh cổng đi vào trình y đã đến.

Vua vô cùng hoan hỷ, phán:

Cho phép y vào chầu tức thì.

Rồi được một đám triều thần vây quanh, Vua ngự lên ngai vàng có lọng trắng che trên đầu, thấy Khemaka bước lên bệ với gánh nặng trên vai, vừa khi nhìn đôi thiên nga sắc vàng óng ả, Vua phán: Ước nguyện của ta đã thành tựu. Rồi Vua truyền lệnh cho quần thần làm mọi việc xứng đáng đền đáp lại người bẫy chim.

Bậc Đạo Sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

Nhìn thấy đôi chim dáng Thánh Thần,

Tràn đầy quý tướng đẹp vô ngần,

Vua Sa mya ấy liền lên tiếng

Cùng với lời trao đám cận thần:

Ban gã săn chim thức uống ăn,

Loại mềm, y phục đẹp oai hùng,

Vàng ròng cả khối màu hồng đỏ

Ban thật nhiều như dạ ước mong.

Lòng vô cùng hân hoan, Vua muốn bày tỏ nỗi thích thú của mình liền phán: Hãy đi trang điểm cho người bẫy chim rồi đưa y đến đây. Thế là đám triều thần đưa gã ra khỏi cung, truyền tỉa râu tóc gã, sau khi y đã tắm rửa, xoa đầu thơm và mặc y phục lộng lẫy, họ đưa y vào yết kiến Vua.

Lúc đó Vua ban cho y hai thôn làng hưởng lợi tức hàng năm một trăm ngàn đồng tiền, một cỗ xe do bầy ngựa thuần chủng kéo, một ngôi nhà rộng rãi đầy đủ tiện nghi cùng đại phú quý vinh hiển.

Khi nhận được đại danh vọng như vậy, người bẫy chim tâu trình để giải thích những việc y đã làm: Tâu Đại Vương, thần không dâng Đại Vương loại thiên nga bình thường đâu. Đây chính là chúa tể của cả đàn chín mươi ngàn thiên nga, mệnh danh Dhatarattha và đây là đại tướng Sumukha.

Sau đó, Vua hỏi: Này hiền hữu, làm sao khanh bắt được đôi chim ấy?

Bậc Đạo Sư ngâm kệ giải thích vấn đề:

Đại Vương nhìn thấy kẻ đi săn,

Đẹp ý hân hoan, mới phán rằng:

Hồ ấy, Khema, đàn ngỗng đến

Hàng ngàn con để kiếm đồ ăn.

Giữa cả đàn chim một giống dòng,

Làm sao khanh cố sức thi công

Chọn ra chim chúa này kiều diễm,

Và bắt thiên nga vẫn sống chăng?

Người săn chim đáp lời Vua:

Bảy ngày ròng rã, dạ âu lo

Thần đã hoài công đánh dấu hồ,

Tìm vết thiên nga này tuyệt đẹp,

Ẩn mình trong một cái lu to.

Hôm nay thần thấy bãi chim ăn

Mà chính thiên nga đã đến gần.

Lập tức chỗ kia thần đặt bẫy,

Thiên nga phút chốc bị sa chân.

Khi nghe vậy, Vua suy nghĩ: Kẻ này lúc đứng ở cổng chỉ kể chuyện chim chúa Dhatarattha bay đến, và bây giờ y cũng chỉ nói về chim này thôi.

Thế việc này có ý nghĩa gì?

Và Vua ngâm vần kệ:

Thợ săn trình chỉ một chim thôi,

Nhưng trẫm thấy đầy đủ cả đôi,

Nhầm lẫn gì chăng, khanh đến tặng

Trẫm đây thêm một chú chim Trời?

Lúc ấy người bẫy chim đáp: Tâu Đại Vương, không có gì thay đổi trong ý định của thần, và thần cũng không muốn dâng thiên nga thứ hai này cho ai cả. Hơn nữa, thần chỉ bắt được một con trong bầy thôi.

Rồi y nói tiếp để giải thích:

Thiên nga có những sọc vàng hồng

Tất cả đều vòng xuống dưới thân,

Đã bị bắt vào trong chiếc bẫy,

Thần dâng đây đúng lệnh minh quân.

Chim tuyệt đẹp này được tự do

Vẫn ngồi bên cạnh bạn sa cơ,

Dùng lời lẽ thế nhân êm dịu

Cố sức làm cho bạn khỏi lo.

Theo cách này y tuyên dương đức hạnh của Sumukha: Ngay khi biết thiên nga Dhatarattha bị bắt, chim ấy ở lại an ủi bạn và khi thần đến gần, nó liền bay đến gặp thần, đứng giữa không gian vừa đàm luận vui vẻ với thần bằng tiếng người, vừa nói rõ mọi đức hạnh của chim Dhatarattha.

Và sau khi đã làm cho lòng thần dịu lại như vậy, nó liền đến đứng trước bạn mình lần nữa. Tâu Đại Vương, khi nghe tài hùng biện của Sumukha, thần đã được cảm hóa và thả chim Dhatarattha. Do vậy, việc thả chim Dhatarattha khỏi bẫy và việc thần đến đây với đôi ngỗng này đều nhờ công Sumukha cả.

Khi nghe vậy, Vua nóng lòng nghe Sumukha thuyết giáo, và trong khi người bẫy chim vẫn đang cung kính đảnh lễ Vua, thì Mặt Trời vừa lặn, đèn đuốc được thắp sáng, một đám tướng lãnh và nhiều người khác tụ họp lại. Hoàng Hậu Khemà được đoàn nữ nhạc hộ tống đến ngự bên phải Vua.

Ngay lúc ấy Vua muốn thuyết phục Sumukha cất tiếng nói, liền ngâm kệ:

Sao ngươi im tiếng, hỡi thiên nga,

Ta đoán phải chăng bởi sợ ta,

Đến trước Quân Vương, ngươi diện kiến,

Mà sao chẳng thốt một lời ra?

Nghe vậy, Sumukha đáp để chứng tỏ mình không sợ gì cả:

Ta chẳng sợ gì, tấu Đại Vương,

Khi trao lời giữa chốn triều đường,

Nếu cơ hội tốt nào đi đến,

Ta quyết sẽ không tránh luận bàn.

Nghe vậy, Vua mong ước làm chim ấy nói nhiều hơn, liền ngâm kệ chê bai vị tướng chim:

Chẳng bầy xạ thủ mặc quân bào,

Chẳng mão, chẳng da bảo hộ nào,

Không có tùy tùng người hoặc ngựa,

Cũng không xa, pháo để theo hầu.

Chẳng thấy vàng đâu, chẳng thị thành,

Chẳng lâu đài tráng lệ quang vinh,

Tháp canh không có, phòng xâm phạm

Với lũy hào bao bọc bản doanh

Do tướng Mục Kha xây dựng vậy,

Không gì đáng sợ ở bên mình.

Khi Vua dùng cách này hỏi chim tại sao không kinh hãi, Sumukha liền đáp kệ:

Chẳng ai bảo vệ, hoặc quân canh,

Chẳng muốn kim ngân hoặc thị thành,

Giữa chốn không gian, ta kiếm lối

Vân du khắp cả Cõi Trời xanh.

Nếu Ngài an trú lý như chân,

Ta ước mong tuyến thuyết, Đại Vương,

Bài học giúp cho Ngài lợi lạc,

Bằng lời tinh tế lại khôn ngoan.

Song nếu Đại Vương chỉ dối gian,

Một người tâm tính thật tồi tàn,

Lời người đặt bẫy này hùng biện

Chẳng ích gì cầu khẩn Đại Vương.

Nghe vậy, Vua liền đáp:

Tại sao ngươi dám bảo trẫm lừa dối tồi tàn?

Thế trẫm đã làm gì chăng?

Sumukha liền đáp:

Vậy Đại Vương hãy nghe đây.

Và chim nói như sau:

Nghe lời các vị Bà La Môn,

Ngài dựng hồ lạc lẫy lừng,

Và đã truyền rao khắp thập hướng:

An toàn đây chỗ của chim muông.

Trong chốn hồ này thật tịnh thanh,

Các dòng nước phẳng lặng, trong xanh,

Chim muông thấy thức ăn phong phú

Sống cuộc đời an ổn trọn lành.

Nghe tiếng đồn này vọng thật xa,

Chúng ta thăm cảnh đẹp hoàng gia,

Than ôi! Mắc bẫy, ta tìm thấy

Lời hứa Quân Vương hóa phỉnh phờ.

Song lời dối trá khéo bao che

Hành động tham lam tội lỗi kia

Chẳng tái sinh thiên, người thế tục,

Thẳng đường địa ngục sẽ đưa về.

Như vậy ngay giữa đám triều thần, chim đã làm Vua phải hổ thẹn.

Sau đó Vua phán: Này Sumukha, trẫm không bắt ngươi để giết và ăn thịt đâu. Song nghe tiếng ngươi thông tuệ biết bao, nên trẫm muốn tận tai nghe ngươi hùng biện đấy thôi.

Rồi Vua ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

Mục Kha, trẫm chẳng phạm sai lầm,

Trẫm chẳng bắt chim bởi dục tâm,

Đây chính nguyên nhân gây việc ấy:

Danh ngươi thông tuệ, trí cao thâm.

Nơi đây chắc hẳn chúng nêu ra

Chân thật, những lời ích lợi ta,

Nên kẻ bẫy chim, ta hạ lệnh,

Đem ngươi về đó, hỡi thiên nga.

Nghe thế, Sumukha đáp:

Tâu Đại Vương, Ngài đã hành động sai lầm.

Và chim ngâm các vần kệ sau:

Ta chẳng thể tuyên thuyết thật chân,

Khi ta kinh hãi chết kề gần,

Cũng không hít thở hơi từ giã

Hấp hối phút giây của tử Thần.

Ai muốn lấy chim để bẫy mồi,

Săn mồi bằng thú dữ tìm tòi,

Pháp Sư đánh bẫy bằng bài giảng,

Kẻ ấy không sao khỏi đọa rồi.

Ai buông lời lẽ thật cao sang,

Dự định hành vi hạ liệt tràn,

Thì ở đời này, đời kế nữa,

Sa từ hạnh phúc đều đau buồn.

Đừng say sưa quá phút vinh quang,

Cũng chớ khổ đau lúc hiểm nàn,

Hãy sửa lỗi lầm thành tốt đẹp,

Hết lòng phấn đấu trước tai ương.

Bậc trí đến khi cuối cuộc đời,

Đã nhìn thấy đích tử Thần rồi,

Sống trên trần đúng đường chân chánh,

Theo hướng đi lên đến Cõi Trời.

Nghe những lời này, giữ chánh chân,

Mau mau giải phóng, hỡi minh quân,

Dha ta ra ấy là chim chúa

Tuyệt thế thiên nga giữa cả đàn.

Nghe vậy, Vua phán:

Mau hãy đi tìm nước rửa chân,

Đem vào đây cả chiếc kim đôn,

Hãy nhìn trẫm thả từ lồng ấy

Tối thượng thiên nga ở cõi trần.

Cùng bậc anh hùng đại tướng quân,

Thật là tài giỏi lại tinh thông,

Dầu khi hoạn nạn hay vinh hiển

Đều dạy thiết thân với chúa công.

Bậc chân chánh ấy xứng uy danh

Theo bước chúa công suốt lộ trình,

Vì đã sẵn sàng trang bị đủ

Với Vua chia xẻ tử cùng sinh.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần