Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Mười - Chuyện Tiền Thân đức Phật - Chương Mười Năm - Phẩm Hai Mươi - Bài Kệ - Chuyện Bậc Hiền Trí Màtanga Tiền Thân Màtanga
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán
PHẬT THUYẾT KINH TIỂU BỘ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
An Thế Cao, Đời Hậu Hán
TẬP MƯỜI
CHUYỆN TIỀN THÂN ĐỨC PHẬT
CHƯƠNG MƯỜI NĂM
PHẨM HAI MƯƠI
BÀI KỆ
CHUYỆN BẬC HIỀN TRÍ MÀTANGA
TIỀN THÂN MÀTANGA
Lão từ đâu đến, đắp y dơ. Chuyện này bậc Đạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về Vua Udena. Vào thời ấy, Tôn Giả Pindola Bhàradvàja phi hành từ Kỳ Viên qua không gian, thường đến tránh cơn nóng ban ngày trong vườn ngự uyển của Vua Udena nước Kosambi.
Chuyện kể rằng Tôn Giả này trong một đời trước đã làm Vua, và thọ hưởng một thời gian dài cảnh vinh quang phú quý trong chính vườn ngự uyển kia cùng đám hầu cận.
Nay nhờ công đức thiện nghiệp ông đã tạo được, nên ông thường đến Tọa Thiền tại đây, tránh cơn nóng ban ngày và hưởng được Cực Lạc do chứng đắc Thánh Quả.
Một hôm ông vào chỗ đó ngồi dưới một cây Sala đang trổ hoa sung mãn, thì Vua Udena đi vào vườn với một đoàn tùy tùng đông đảo. Suốt bảy ngày trước Vua uống rượu say nên muốn vào ngự viên giải trí.
Vua nằm trên Vương sàng trong cánh tay của một nàng cung nữ và được dỗ dành cho chóng ngủ thiếp đi. Sau đó đám nữ nhạc ngồi ca hát quanh Vua đặt nhạc khí xuống, vừa đi quanh quẩn trong vườn ngự uyển vừa nhặt hoa trái.
Dần dần họ thấy vị Trưởng Lão ấy nên bước lên,đảnh lễ vị ấy và ngồi xuống. Vị Trưởng Lão ngồi tại chỗ đó thuyết pháp cho họ nghe.
Nàng cung nữ kia đổi cánh tay để thức Vua dậy, Vua hỏi: Bầy tiện tỳ kia đi đâu cả rồi?
Nàng đáp: Chúng đang ngồi vòng quanh một nhà tu khổ hạnh.
Vua nổi cơn thịnh nộ, đi đến gặp vị Trưởng Lão và mạ lỵ phỉ báng: Đi ngay, ta muốn kẻ kia phải bị bầy kiến xé xác ra!
Thế là trong cơn thịnh nộ, Vua truyền đem một thúng kiến đỏ đến rải tung trên thân thể vị Trưởng Lão. Song vị này đã bay lên không gian, và thuyết giáo cho Vua xong, trở về Kỳ Viên hạ xuống trước cổng Hương phòng.
Đức Như Lai hỏi: Ông từ đâu đến?
Tôn Giả ấy kể lại sự việc trên.
Ngài bảo: Này Bhàradvàja, đây không phải là lần đầu tiên Vua Udena nổi sân hận và lăng mạ một kẻ tu hành, mà trước kia cũng đã như thế.
Rồi theo lời thỉnh cầu của vị Trưởng Lão, Ngài kể một chuyện quá khứ. Một thời, khi Vua Brahmadatta lên ngôi tại Ba La Nại.
Bậc Đại Sĩ sinh làm con trai của một người Chiên Đà La Candàla: Hạ đẳng tiện dân ở ngoại thành, họ đặt tên Ngài là chú voi Màtanga. Sau đó Ngài thông đạt trí tuệ, danh tiếng lan truyền khắp nơi là Bậc Hiền Trí Màtanga.
Lúc bấy giờ có một nàng tên Dittha Mangalikà người thấy các điềm lành, con gái của một vị thương nhân thành Ba La Nại, cứ một hoặc hai tháng một lần, thường vào ngự viên vui đùa cùng đám bạn đồng hành đông đảo. Một ngày kia, bậc Đại Sĩ đi vào thành, liền gặp Dittha Mangalikà, Ngài bước sang một bên và đứng im phăng phắc.
Từ sau búc màn, Dittha trông thấy Ngài và hỏi: Ai đó?
Thưa cô nương, một kẻ Chiên Đà La. Hừ, nàng đáp, ta đã thấy nhằm một vật mang điềm xui xẻo. Rồi nàng rửa mắt bằng nước hoa và quay đi.
Đám người đi với nàng la lớn: Này tên bần cùng hèn hạ kia, mày đã làm chúng ta mất phần cơm rượu miễn phí hôm nay. Trong cơn giận dữ, họ lấy tay chân đấm đá Bậc Hiền Trí Màtanga, khiến cho Ngài bất tỉnh rồi bỏ đi.
Sau một lát Ngài hồi tỉnh và nghĩ thầm: Đám người đi theo Dittha Mangalika đã vô cớ đánh đập ta, một kẻ vô tội. Ta quyết sẽ không nhúc nhích cho đến khi ta chiếm được nàng, chẳng chịu đi trước một chút nào cả. Với quyềt định này, Ngài bước đi đến trước cửa nhà cha nàng.
Khi đám gia nhân hỏi tại sao Ngài nằm đó, Ngài đáp: Ta chỉ muốn được nàng Dittha Mangalikà mà thôi. Một ngày trôi qua, rồi hai, ba, tư, năm, sáu, quyết định của Chư Phật thường thường không sao lay chuyển được. ì thế vào ngày thứ bẩy họ phải đem cô gái ra trao cho Ngài.
Sau đó nàng bảo: Nào đứng lên chàng ơi, ta cùng đi về nhà chàng đi!
Song Ngài đáp: Cô nương ôi, ta vừa bị bọn người nhà nàng đánh đập nên thân, nay ta yếu lắm, nàng hãy cõng ta trên lưng và mang đi. Nàng làm theo lời ấy ngay trước mặt mọi người dân trong thành và nàng cứ tiến dần từ thành đô đi đến vùng tiện dân Chiên Đà La cư trú. Ở đó trong vài ngày, bậc Đại Sĩ giữ nàng lại mà không chút nào xâm phạm các luật lệ của giai cấp.
Rồi Ngài suy nghĩ: Chỉ bằng cách từ bỏ thế tục, chứ không còn cách nào khác, ta mới có thể cho cô nương này thấy cảnh vinh hiển tột bậc và cho nàng hưởng những lễ vật cao sang nhất.
Vì thế Ngài bảo nàng: Này Nương Tử, nếu ta không vào rừng kiếm ăn thì chúng ta không thể sống được. Vậy ta muốn vào rừng, nàng hãy đợi cho đến khi ta về, song đừng có lo âu gì cả.
Ngài ra lệnh cho gia nhân không được sao nhãng đối với nàng, rồi đi vào rừng, sống cuộc đời người tu hành, rất nhiệt tâm tinh tấn. Vì vậy trong bẩy ngày, Ngài tu tập và thành tựu Tám thiền chứng và Năm thắng trí.
Sau đó Ngài suy nghĩ: Nay ta đã có thể bảo vệ Dittha Mangalikà được rồi. Nhờ thần thông lực, Ngài trở về và hạ xuống cổng làng Chiên Đà La, từ đó đi vào nhà Dittha Mangalikà.
Khi nghe tin Ngài trở về, nàng bước ra và òa lên khóc bảo: Tại sao chàng bỏ thiếp và đi tu khổ hạnh?
Ngài đáp: Này Nương Tử, đừng lo gì cả. Nay ta có thể làm cho nàng vinh quang hơn trước kia nữa!
Vậy nàng có chịu nói lên giữa mọi người đúng lời này: Phu quân ta không phải là Màtanga, mà là một Đấng Đại Phạm Thiên chăng?
Thưa phu quân được, thiếp xin nói điều ấy.
Tốt lành thay, khi dân chúng hỏi: Chồng nàng đâu?
Nàng trả lời: Chàng đã đi lên Phạm Thiên Giới.
Nếu họ lại hỏi: Thế khi nào chàng về?
Nàng phải đáp: Trong bảy ngày nữa, chàng sẽ về, xuyên qua Mặt Trăng tròn đầy của đêm rằm. Cùng với những lời này, Ngài đi vào vùng Tuyết Sơn. Lúc bấy giờ, Dittha Mangalikà nói những điều nàng đã được căn dặn khắp nơi ở Ba La Nại giữa quần chúng đông đảo.
Dân chúng tin ngay lời ấy , bảo nhau: Ngài là Đấng Đại Phạm Thiên, nên đã không đến thăm viếng Dittha, nhưng mọi việc sẽ như vậy như vậy. Vào đêm trăng rằm, trong lúc vầng trăng đang di chuyển nửa vời, Bồ Tát hóa thành một vị Phạm Thiên ở giữa luồng ánh sáng tràn ngập Vương Quốc Kàsi và Kinh Thành Ba La Nại đến mười hai dặm, băng ngang qua Mặt Trăng và giáng trần.
Ngài đi vòng quanh Kinh Thành Ba La Nại ba lần, được dân chúng đông đảo tỏ lòng sùng bái bằng các vòng hoa thơm và hương liệu khác rồi quay mặt về hướng ngôi làng Chiên Đà La. Những người ngưỡng mộ Phạm Thiên tụ tập cùng nhau đi về phía làng Chiên Đà La ấy.
Họ bao phủ căn nhà của Dittha Mangalikà bằng màu vải trắng tinh, lau sàn nhà bằng bốn loại hương thơm, rải hoa khắp nơi, đốt trầm hương, trương một tấm vải làm mái che, đặt một bảo tọa rực rỡ, thắp đèn dầu thơm, rắc lớp cát mịn như phiến bạc rồi treo đèn kết hoa và cờ xí rợp Trời.
Trước gian nhà được trang hoàng lộng lẫy thế kia, bậc Đại Sĩ bước vào và ngồi một lát trên bảo tọa. Lúc ấy Dittha Mangalìka đang có kinh kỳ. Ngài lấy ngón tay trỏ rờ vào rốn nàng và nàng thụ thai.
Sau đó bậc Đại Sĩ bảo nàng: Này Hiền thê, nàng đã thụ thai, nàng sẽ sinh ra một con trai, nàng và con trai nàng sẽ được phú quý tột bậc, nước rửa chân nàng sẽ được Vua chúa dùng làm lễ quán đảnh lễ rảy nước thánh phong Vương cõi Diêm Phù Đề Ấn Độ, nước nàng tắm sẽ là thứ tiên dược trường sinh bất tử, người nào rảy nước đó lên đầu sẽ thoát khỏi mọi thứ bệnh tật và không gặp điềm xui xẻo, những kẻ nào được đặt đầu dưới chân nàng và kính lễ nàng, sẽ dâng lên một ngàn đồng tiền vàng.
Những kẻ nào được đứng gần đủ để có thể nghe nàng nói và kính lễ nàng sẽ dâng lên một trăm đồng. Kẻ nào được đứng để trông thấy nàng và kính lễ nàng sẽ dâng một đồng rupee.
Vậy nàng hãy tỉnh giác giữ mình cẩn thận! Cùng với lời khuyến giáo này, trước mặt một đám đông, Ngài đứng dậy và lại đi vào Mặt Trăng. Những người sùng bái Phạm Thiên tụ tập nhau lại và đứng đó suốt đêm, sáng hôm sau họ mời nàng lên chiếc kiệu bằng vàng và đội lên đầu nàng, rước nàng vào Kinh Đô.
Một đám đông dân chúng chạy đến phía nàng kêu lớn: Kìa! Hoàng Hậu của Đấng Phạm Thiên! Rồi cúng bái nàng với các hoa thơm và nhiều thứ nữa, những kẻ nào được phép đặt đầu dưới chân nàng và kính lễ đều dâng lên một túi tiền một ngàn đồng, người nào đứng gần nàng và kính lễ thì dâng một trăm, người nào đứng đủ nhìn thấy được nàng và kính lễ thì dâng một rupee.
Cứ vậy họ tiến dần khắp thành Ba La Nại, rộng mười hai dặm và thu được tổng số một trăm tám chục triệu đồng. Sau khi đi xung quanh thành như vậy, họ rước nàng vào nội thành, dựng lên một ngôi đình lớn vây màn chung quanh, mời nàng yên nghỉ tại đó giữa cảnh huy hoàng vinh quang như thế. Tới ngôi đình, họ bắt đầu xây bảy cổng vào thật lớn và dựng một cung điện bảy tầng, họ đã tạo được nhiều công đức mới dành phần họ vậy.
Cũng trong ngôi đình ấy Dittha Mangalikà sinh hạ con trai. Vào ngày đặt tên hài nhi, các Bà La Môn tụ họp nhau và đặt tên nó là Mandavya Kumàra hay Vương Tử của Ngôi Đình, vì nó được sinh ra tại đó. Độ mười tháng, lâu đài kia đã được xây xong, từ đó nàng vào ở trong lâu đài vô cùng vinh hiển và Vương Tử Mandavya lớn lên giữa cảnh huy hoàng tột bậc.
Khi hài nhi được bẩy tuổi, những bậc thầy danh tiếng nhất khắp toàn cõi Diêm Phù Đề Ấn Độ tụ tập lại và dạy cậu ba tập Vệ Đà. Từ mười sáu tuổi cậu trai đã cúng dường thực phẩm cho các Bà La Môn, và mười sáu ngàn Bà La Môn được cúng dường liên tục. Tại cổng thành thứ tư có dàn binh bố trận, các vật cúng dường được phân phát cho các vị Bà La Môn.
Bấy giờ vào một ngày Đại hội, dân chúng chuẩn bị một số lớn cháo gạo, rồi mười sáu ngàn Bà La Môn ngồi tại cổng thành thứ tư có dàn binh bố trận kia, và dùng món cháo ấy cùng với món bơ tươi màu vàng óng ánh, nước đường pha mật ong đặc, và chính vị Vương Tử trang điểm ngọc châu sáng rực rỡ mang đôi hài vàng dưới chân, cầm chiếc gậy vàng ròng trong tay, vừa đi quanh vừa chỉ dẫn: Này bơ đây, mật ong đây. Vào lúc ấy Bậc Hiền Trí Màtanga đang ngồi trong thảo am ở vùng Tuyết Sơn, và hướng tầm tứ vào việc xem xét những gì xảy ra cho con trai của nàng Dittha Mangalikà.
Khi nhận thấy cậu con trai đang đi lạc tà đạo, Ngài suy nghĩ: Hôm nay ta sẽ đi giáo hóa cho cậu bé kia và dạy cho nó biết cúng dường như thế nào để lễ vật bố thí ấy sẽ mang lại kết quả lớn.
Ngài liền bay qua không gian đến hồ Anotatta, rửa mặt mũi và súc miệng rồi khi đứng tại địa phận Manosila thuộc vùng Tuyết Sơn Ngài khoác đôi tấm y vàng vào quấn thắt lưng quanh người, rồi đắp phấn tảo y áo may bằng giẻ rách ra ngoài, cầm bình bát đất, phi hành qua không gian đến cổng thứ tư ấy, nơi đó Ngài hạ xuống ngay cạnh bố thí đường, và đứng một bên.
Đang lúc Mandavya nhìn quanh quẩn, chợt thấy Ngài liền kêu to: Lão từ đâu đến, hỡi kẻ khổ hạnh kia, lão là kẻ hạ liệt bị bỏ rơi vô thừa nhận, một thứ yêu quỷ chứ không phải là người đó chăng?
Rồi cậu ngâm vần kệ đầu:
Lão từ đâu đến đắp y dơ,
Người ngợm tồi tàn tựa quỷ ma,
Giẻ rách làm y quàng trước ngực,
Lão là ai? Chẳng xứng phần quà!
Bậc Đại Sĩ lắng nghe, rồi với lòng từ mẫn, Ngài đáp lời cậu qua vần kệ thứ hai:
Vương Tử!
Thức ăn đã sẵn bày,
Mọi người ăn uống hưởng no say:
Bọn ta, Ngài biết thường sinh sống
Bằng thứ tìm ra bởi gặp may.
Xin đứng lên cho người hạ tiện
Hưởng phần thọ thực chút gì đây.
Tiếp theo Mandavya ngâm vần kệ thứ ba:
Phần các La Môn hưởng phước ân,
Này đây thực phẩm chính tay dâng
Thí tài cúng với lòng thành kính.
Thôi cút! Ai đưa lão cán chân?
Chẳng có phần cho người hạ tiện,
Kẻ hèn kia hãy bước đi luôn!
Vì nghe thế bậc Đại Sĩ ngâm vần kệ:
Mọi nơi cao thấp họ gieo trồng,
Mong gặt quả trên đám ruộng đồng:
Chánh Đạo này đây, xin bố thí,
Sau Ngài xứng đáng hưởng phần công.
Sau đó Mandavya đáp kệ:
Ta biết đất ta muốn cấy trồng,
Những vùng xứng đáng hạt đâm bông,
La Môn quý tộc, thông Kinh Thánh:
Là đất lành phong phú ruộng đồng.
Rồi bậc Đại Sĩ lại ngâm hai vần kệ:
Ngạo mạn giống dòng quá tự kiêu,
tham sân si, uống rượu say nhiều,
Người tâm chứa đủ sai lầm ấy,
Là đất hoang cằn để hạt gieo.
Ngạo mạn giống dòng quá tự kiêu,
tham sân si, uống rượu say nhiều,
Người tâm chứa đủ sai lầm ấy,
Là đất hoang cằn để hạt gieo.
Bậc Đại Sĩ cứ ngâm đi ngâm lại những lời kệ ấy mãi, song cậu trai nổi giận và kêu lớn: Lão này nói quàng xiêng quá nhiều rồi.
Những người gác cổng đi dâu cả mà không tống cổ lão ra?
Rồi cậu ngâm kệ:
Này Bran da! Hỡi U paj jhà!
Ta bảo, đâu rồi Uptiya,
Trừng phạt lão này, cho lão chết,
Tên hèn hạ, tống cổ ngay ra.
Bọn gia nhân nghe tiếng cậu gọi, liền chạy đến ngay kính lễ cậu rồi hỏi: Tâu chúa công, chúng tiểu nô phải làm gì đây?
Thế các người không thấy tên hạ liệt tồi tàn này sao?
Tâu Vương Tử không, chúng tiểu nô không biết lão đã tới đây lúc nào cả, chắc chắn lão là tên lừa bịp xảo trá rồi!
Nào, vậy sao các người còn đứng đó?
Tâu chúa công, vậy chúng tiểu nô phải làm gì đây?
Sao ư?
Phải vả vào mồm lão!
Bẻ hàm lão ra, lấy roi gậy đánh cho nát lưng, trừng phạt lão đi, tóm lấy cả tên khốn kiếp này, quăng lão xuống, tống lão ra khỏi đây ngay!
Song trước khi bọn chúng đến gần Ngài, bậc Đại Sĩ đã bay lên không, vừa đứng vững ở đó vừa ngâm kệ:
Phỉ báng Hiền Nhân! Lợi ích bằng
Với khi nuốt ngọn lửa đang hồng,
Hay là sắt cứng, đưa răng cắn,
Đào núi, mà dùng móng vuốt không?
Sau khi thốt những lời này xong, bậc Đại Sĩ vụt lên cao trong khi cậu trai và đám Bà La Môn ngơ ngác nhìn theo.
Bậc Đạo Sư ngâm kệ để giải thích việc này:
Nói vậy, Màtanga Trí nhân,
Bậc phò Chánh Đạo, lý thuần chân,
Rồi Ngài bay bổng trên không khí
Trước mắt nhìn theo của đám đông.
Ngài quay mặt về hướng Đông, hạ xuống một đường phố với ý định làm cho dấu chân Ngài được nhìn thấy, nên Ngài khất thực gần Đông môn. Lúc ấy, sau khi đã nhận được một số thực phẩm đủ loại, Ngài ngồi xuống một sảnh đường và bắt đầu ăn.
Song các Thần linh trong Kinh Thành chợt đến, thấy rằng Vua này đã nói năng như vậy làm phiền nhiễu vị Hiền Nhân của các vị, là điều không thể dung thứ được, nên vị thần cao niên nhất trong bọn chụp lấy cổ Mandavya và vặn tréo, các quỷ kia lại chụp lấy cổ các Bà La Môn ấy và vặn luôn.
Song vì thương cảm Bồ Tát, các vị ấy không giết Mandavya, các vị bảo: Đó là con trai của Ngài. Và các vị chỉ hành hạ cậu ta thôi. Đầu của Mandavya bị vặn tréo ra đằng sau vai, tay chân cậu cứng đờ, mắt trợn trừng như thể chết rồi, cậu nằm rũ liệt tại đó. Các Bà La Môn kia quay cuồng vật vã, mồm chảy nước miếng tràn ra.
Dân chúng đến báo tin cho bà Dittha Mangalikà: Tâu lệnh bà, có chuyện chẳng lành xẩy ra cho Vương Tử!
Bà vội chạy đến thấy cậu trai liền kêu lớn: Ôi sao lại thế này?
Rồi bà ngâm kệ:
Vặn tréo đầu con khỏi bả vai,
Kìa sao con duỗi cánh tay dài,
Bơ vơ mắt trắng dường như chết,
Kẻ hại con mình đó chính ai?
Khi ấy những người đứng ngoài xem liền ngâm kệ nói cho bà biết chuyện kia.
Ẩn sĩ đây khoác áo dơ,
Tồi tàn người ngợm tợ yêu ma,
Y bằng giẻ rách quàng ngang ngực,
Chính kẻ hành hung quý tử bà.
Nghe vậy bà suy nghĩ: Chắc chắn đó là Bậc Hiền Nhân Màtanga, không ai khác có thần lực như vậy. Song một người thủy chung và đầy thiện ý đối với mọi loài, chẳng bao giờ lại bỏ đi để cho những kẻ này phải chịu sự hành hạ thế kia.
Nay không biết Ngài đã đi hướng nào?
Bà hỏi câu này qua vần kệ sau:
Về hướng đi nào, bậc Trí nhân?
Trả lời ta, hỡi các Vương tôn!
Chúng ta đi chuộc cho lầm lỗi,
Để giúp con ta được tỉnh hồn.
Các chàng trai kia đáp lời bà theo cách này:
Bậc Hiền vụt hiện giữa không gian,
Như thể vầng trăng giữa tối rằm,
Đẹp Mặt Thay, Ngài sùng Chánh Đạo!
Phương Đông theo hướng ấy lên đàng.
Khi họ đáp như thế bà liền bảo:
Ta quyết sẽ đi tìm phu quân ta.
Rồi bà ra lệnh đem theo bà nhiều bình vàng và chén vàng, rồi được một đám tỳ nữ vây quanh, bà ra đi, tìm thấy nơi có dấu chân của Ngài đã in xuống đất, bà cứ theo dấu chân này cho đến khi bà gặp Ngài đang ngồi trên một chỗ kia và ăn cơm.
Đi đến gần Ngài, bà đảnh lễ rồi đứng im. Khi thấy bà, Ngài đặt miếng cơm vào bát. Dittha Mangalikà rót nước lên tay Ngài từ chiếc bình vàng, Ngài lập tức rửa tay và súc miệng.
Sau đó bà hỏi: Ai đã làm việc tàn ác này cho con trai của thiếp?
Và bà ngâm kệ:
Vặn tréo đầu con khỏi bả vai,
Kìa sao con duỗi cánh tay dài,
Bơ vơ mắt trắng dường như chết,
Kẻ hại con mình đó chính ai?
Các vần kệ sau đây là lời đối đáp xen kẽ nhau giữa hai vị:
Bậc trí:
Quỷ linh đủ đại lực uy thần
Đẹp mắt theo hầu các Trí nhân,
Chúng thấy con nàng sân, ác ý,
Nên hành xử nó chính vì nàng.
Bà hoàng:
Chính các Thần linh tạo việc trên,
Hiền Nhân đừng phẫn nộ thân hèn,
Xin Ngài từ mẫn vì con thiếp,
Quy ngưỡng từ nay dưới gót sen.
Bậc Trí:
Tâm ta, hãy biết, chẳng tiềm tàng,
Từ trước đến giờ, ý hận sân,
Con trẻ không thông ba Thánh Điển,
Vì đầy vọng tưởng, ngập kiêu căng.
Bà hoàng:
Con người có thế, hỡi Hiền Nhân,
Bỗng chốc trí khôn hóa tối tăm,
Tha lỗi thiếp này, thưa Trí Giả,
Bậc Hiền không để khởi hờn căm.
Bậc Đại Si được bà xoa dịu bằng lời lẽ như vậy, liền đáp: Được, ta sẽ cho nàng thứ tiên dược trường sinh bất tử để đuổi bọn quỷ ma ấy đi xa.
Rồi Ngài ngâm kệ:
Chút của thừa này, hãy lấy mang,
Cho Manda khốn khổ phần ăn,
Con nàng sẽ mạnh mau bình phục,
Bọn quỷ tha mồi, được thoát thân.
Khi bà nghe những lời này của bậc Đại Sĩ liền đưa chiếc bình bát vàng ra và nói: Xin phu quân hãy cho thiếp thuốc tiên bất tử ấy.
Bậc Đại Sĩ đổ vào đó một ít cháo còn lại và bảo: Hãy đổ một nửa cháo này vào mồm con nàng, còn lại thì trộn với nước rồi đổ vào mồm các Bà La Môn kia, chúng sẽ được bình phục cả. Rồi Ngài đứng lên đi về phía vùng Tuyết Sơn.
Bà mang bình ấy trên đầu và kêu: Ta đã được thuốc Tiên bất tử rồi! Khi đến nhà, trước hết bà đổ một ít vào miệng con trai bà.
Quỷ Thần liền chạy trốn, Vua đứng dậy, phủi bụi bặm rồi hỏi: Cái gì đây mẹ?
Con đã biết rõ những việc con làm rồi, nay hãy nhìn tình cảnh khốn khổ của đám người khất thực nhà ta kia kìa!
Khi cậu nhìn thấy bọn ấy, lòng cậu đầy ân hận.
Rồi mẹ cậu bảo: Này Mandavya yêu quý, con thực là kẻ ngu si không biết bố thí cách nào để của bố thí ấy mang lại kết quả tốt. Bọn này không xứng đáng với lòng hào phóng của con đâu, chỉ những vị nào như Bậc Hiền Nhân Mantaga là xứng đáng thôi. Từ nay về sau đừng đem cái gì cho những ác nhân như bọn này, mà chỉ nên bố thí cúng dường những người đức hạnh.
Rồi bà ngâm kệ:
Manda, tiểu trí thật ngu đần,
Chẳng biết lúc nào đáng bố ân:
Con cúng dường bao người trọng tội,
Lũ người vô độ, bọn tà nhân!
Xiêm áo bằng da mớ tóc xù,
Miệng như giếng cũ, có tràn bờ,
Hãy nhìn giẻ rách bầy kia mặc!
Các thứ này không cứu lũ ngu!
Hễ khi tham dục với cuồng sân,
Được tống ra ngoài các thế nhân,
Bố thí Hiền Nhân thanh tịnh ấy,
Quả nhiều cho việc đã làm ăn.
Vậy từ nay về sau con đừng bố thí cho hạng người ác như thế này, mà chỉ nên bố thí cúng dường những kẻ nào ở trên đời này đạt tám thiền chứng, là những nhà tu khổ hạnh, các Sa Môn, Bà La Môn chân chính đã chứng Năm Thắng trí, các vị Độc Giác Phật.
Này con, để mẹ đưa loại thuốc tiên bất tử này cho bọn gia nhân của ta đây và làm chúng bình phục. Nói vậy xong, bà lấy miếng cháo thừa ấy đổ vào một bình nước và rẩy lên miệng mười sáu ngàn Bà La Môn kia. Mọi người đều đứng dậy và phủi hết bụi bặm.
Sau đó, vì các Bà La Môn này đã phải nếm thức ăn thừa của một kẻ Chiên Đà La, nên bị các Bà La Môn khác tống xuất ra khỏi giai cấp ấy. Đầy ô nhục, bọn họ rời thành Bà La Nại và đi về Vương Quốc Mejjha, tại đây họ ở chung với Vua xứ đó. Còn Mandavya vẫn ở chốn cũ.
Vào thời đó có một Bà La Môn tên là Jàtimanta, là một kẻ tu hành, ở gần Kinh Thành Vettavati trên bờ sông có cùng tên ấy, ông là kẻ rất kiêu mạn về dòng dõi của mình.
Bậc Đại Sĩ liền đến đó, quyết đập tan lòng kiêu mạn của người kia, Ngài dựng am trú ngụ gần đó, sống ở phía thượng nguồn con sông.
Một hôm sau khi xỉa răng xong, Ngài thả cái tăm xuống dòng nước. Cố ý để cho nó vướng vào búi tóc của Jàtimanta, vì vậy, trong khi kẻ ấy đang tắm trong dòng nước sông, cái tăm ấy vướng vào búi tóc ông.
Đồ Súc Sinh!
Ông nói, trong khi thấy cái tăm: Nó từ đâu đến đây với cái đồ phá hoại này. Ta phải tìm xem.
Ông liền đi ngược dòng, khi thấy bậc Đại Sĩ liền hỏi: Ông thuộc giai cấp nào?
Ta là một Chiên Đà La.
Có phải ông đã thả cây tăm xuống sông chăng?
Chính phải?
Đồ Súc Sinh, quân tồi tàn hạ đẳng!
Đồ mắc dịch, không được ở đây!
Mà phải đi xuống chỗ hạ lưu kia. Song khi Ngài xuống ở vùng hạ lưu, cái tăm Ngài thả trôi ngược dòng nước, vẫn vướng vào tóc Jàtimanta.
Ông mắng: Quân đáng nguyền rủa! Nếu ngươi ở đây trong bảy ngày nữa , đầu ngươi sẽ tan thành bảy mảnh.
Bậc Đại Sĩ suy nghĩ: Nếu ta buông mình theo cơn thịnh nộ với gã này, thì ta không giữ được công đức, song ta sẽ tìm cách phá tan lòng kiêu mạn của gã.
Vào ngày thứ bảy, Ngài ngăn cản Mặt Trời mọc, cả trần gian đều tối tăm nên dân chúng kéo đến vị tu khổ hạnh Jàtimanta và hỏi: Thưa Tôn Giả, có phải chính Ngài ngăn cản Mặt Trời mọc chăng?
Gã đáp: Việc đó không phải do ta làm, mà có một lão Chiên Đà La sống gần bờ sông, chắc lão ấy làm đấy.
Sau đó dân chúng đến gặp bậc Đại Sĩ và hỏi lại: Thưa Tôn Giả, có phải chính Tôn Giả ngăn cản Mặt Trời mọc chăng?
Ngài đáp: Này các Hiền hữu, chính phải!
Tại sao thế?
Họ hỏi. Vị tu khổ hạnh được các hiền hữu quý mến đã phỉ báng ta, một người vô tội, vậy khi nào vị đó đến quỳ dưới chân ta để xin thương xót, thì ta mới để cho Mặt Trời mọc lên.
Dân chúng đi kéo lê kẻ ấy rồi thả ông xuống trước chân bậc Đại Sĩ và cố sức vỗ về Ngài vừa nói: Thưa Tôn Giả, xin cho mặt trời mọc.
Song Ngài đáp: Ta không thể để mặt trời mọc được vì nếu ta làm như thế, đầu kẻ này sẽ vỡ thành bảy mảnh.
Họ hỏi: Thưa Tôn Giả, vậy chúng tôi phải làm gì?
Hãy đem cho ta một cục đất!
Họ đem lại một cục đất. Nào, hãy đặt cục đất lên đầu kẻ khổ hạnh này, rồi kéo gã xuống nước. Sau khi sắp đặt mọi việc này xong, Ngài để cho Mặt Trời mọc lên. Vừa khi Mặt Trời được di chuyển tự do, cục đất nứt thành bảy mảnh, còn kẻ tu khổ hạnh nhảy tùm xuống nước.
Sau khi đã hàng phục gã như vậy, bậc Đại Sĩ suy nghĩ: Mười sáu ngàn Bà La Môn kia hiện ở đâu?
Ngài nhận ra bọn ấy đang ở với Vua Mejjha, và cũng quyết định đi hàng phục họ, nên dùng thần lực, Ngài hạ xuống vùng ngoại thành, cầm bình bát trong tay, đi khất thực.
Khi các Bà La Môn thấyđược Ngài, họ bảo nhau: Chỉ để lão ở đây hai ngày thôi là lão sẽ làm ta mất nơi nương tựa!
Bọn ấy vội vàng chạy đến yết kiến Vua và kêu to: Tâu Đại Vương, có một lão khoác lác đại bịp đến đây, xin hãy bỏ tù lão!
Vua rất sẵn sàng. Còn bậc Đại Sĩ với bát thức ăn đủ loại đang ngồi ăn bên bức thành trên một chiếc ghế dài. Tại đó trong khi Ngài đang bận ăn uống, đám thị vệ của Vua tìm đến, lấy kiếm đánh Ngài rồi giết đi. Sau khi mạng chung, Ngài tái sanh lên Cõi Phạm Thiên.
Chuyện kể rằng, trong kiếp này Bồ Tát là một người luyện thú mongoose một giống chồn ở Ấn Độ và Ngài phải chịu chết vì công việc hạ tiện này. Các vị Thần nổi giận liền trút xuống toàn Vương Quốc Mejjha một trận lửa tro nóng rực quét sạch nước ấy ra khỏi các nước kia.
Vì thế có lời lưu truyền:
Người ta kể chuyện cả non sông
Của xứ Mejjha phải diệt vong,
Nước kia bị xóa tan bờ cõi
Vì giết Màtan, bậc lẫy lừng.
Khi bậc Đạo Sư đã chấm dứt Pháp Thoại này.
Ngài bảo: Đây không phải là lần đầu tiên Vua Udena phỉ báng các vị tu khổ hạnh, mà xưa kia cũng thế.
Rồi Ngài nhận diện tiền thân: Vào thời ấy, Vua Udena là Mandavya và ta chính là Bậc Hiền Trí Màtanga.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba