Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Mười - Chuyện Tiền Thân đức Phật - Chương Mười Sáu - Phẩm Ba Mươi Bài Kệ - Chuyện Dục Tham Kỳ Dị Tiền Thân Kimchanda

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:19 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán

PHẬT THUYẾT KINH TIỂU BỘ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư 

An Thế Cao, Đời Hậu Hán  

TẬP MƯỜI

CHUYỆN TIỀN THÂN ĐỨC PHẬT  

CHƯƠNG MƯỜI SÁU  

PHẨM BA MƯƠI BÀI KỆ  

CHUYỆN DỤC THAM KỲ DỊ

TIỀN THÂN KIMCHANDA  

Vì cớ sao Ngài ở bến sông. 

Câu chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Jetavana Kỳ Viên hay Thắng Lâm về việc hành trì ngày Trai giới uposatha: Bồ Tát giới hay Bát Quan Trai giới. Một ngày nọ, một số nam nữ cư sĩ đang hành trì ngày Trai giới, đến nghe pháp và ngồi tại Chánh Pháp Đường.

Bậc Ðạo Sư hỏi xem hội chúng có hành trì ngày Trai giới không, và khi họ đáp là có, Ngài nói thêm: Các ông hành trì ngày Trai giới thật tốt lành thay. Ngày xưa, có những người chỉ nhờ hành trì nửa ngày trai giới mà đạt được vinh quang tột bực.

Rồi theo lời thỉnh cầu của hội chúng, Ngài kể câu chuyện quá khứ. Một thuở nọ tại thành Ba La Nại, Vua Brahmadatta cai trị Quốc Độ rất đúng pháp và là một người sùng đạo, Ngài nhiệt tình hành trì mọi thiện sự trong ngày Trai giới, giữ đúng giới luật và bố thí.

Ngài cũng khuyên các cận thần cùng nhiều người khác giữ Hạnh Nguyện bố thí, làm phước đức, nhưng vị Quốc Sư của Ngài là một kẻ xấu miệng, ưa gièm pha, tham của hối lộ, nên xử án bất công.

Vào một ngày Trai giới kia, Vua triệu các quân sư lại và bảo họ giữ giới. Vị Quốc Sư này không thi hành phận sự của ngày trai giới. Vì vậy trong ngày ấy, lão nhận hối lộ và xử án bất công rồi sau đó đến chầu Vua.

Sau khi hỏi mỗi vị cận thần xem có giữ giới không, Vua hỏi vị Quốc Sư: Này Tôn Giả, người có giữ giới không?

Lão nói dối là có, rồi rời cung Vua.

Lúc ấy một vị cận thần khác quở trách lão: Chắc chắn Ngài chẳng giữ giới.

Lão đáp: Ta đã ăn từ sáng sớm, nhưng khi ta về nhà sẽ súc miệng và giữ giới luật, ta sẽ không ăn gì buổi chiều và suốt đêm ta sẽ giữ giới luật, như thế ta cũng giữ được nửa ngày Trai giới.

Họ đáp: Thưa Tôn Giả, thế thì tốt lắm. Lão đi về nhà và làm đúng như vậy.

Một ngày kia, khi lão đang ngồi xử kiện, một người đàn bà vốn là kẻ giữ đúng giới luật, đang gặp chuyện thưa kiện, và vì không thể về nhà được, bà ấy nghĩ thầm: Ta không thể vi phạm hành trì ngày trai giới. Nên lúc đến gần giờ trì giới, bá ấy bắt đầu súc miệng. Và lúc ấy có người mang vào một mâm xoài chín biếu Tế Sư Bà La Môn.

Lão thấy bà ta đang giữ giới liền bảo: Bà ăn đi rồi giữ giới. Bà ấy vâng theo. Hạnh nghiệp của vị Bà La Môn kia đã tạo được nhiều phước lớn.

Về sau đó, lão chết đi và tái sinh vào vùng núi Tuyết Sơn, trong một nơi phong cảnh tươi đẹp bên bờ sông Kosiki, chi nhánh của Sông Hằng, trong một khu rừng xoài rộng ba dặm trên một Vương sàn nguy nga của một cung điện bằng vàng.

Lão tái sinh như thể một người vừa thức giấc, liền được phục sức xiêm y, điểm trang lộng lẫy, với dung mạo tuyệt vời, lại được mười sáu ngàn Tiên Nữ chầu hầu chung quanh.

Suốt đêm trường lão thọ hưởng vinh quang này vì đã được sinh làm vị Thần trong Ma Cung, phước lộc của lão cũng tương xứng với hạnh nghiệp xưa của lão.

Vì thế khi bình minh đến, lão vào rừng xoài, ngay lúc vừa bước chân vào, thân thể Thần Tiên của lão biến mất, lão hóa hình thù to lớn như một cây thốt nốt cao tám mươi cubit acubit = 45cm, toàn thân rực sáng như một cây phượng vĩ đang trổ hoa đỏ thắm.

Lão chỉ có một ngón tay trên mỗi bàn tay, nhưng móng lại to như bàn cuốc, với các móng tay này, lão móc thịt sau lưng, xé thịt mình ra mà ăn, rồi đau đớn điên cuồng lên, lão cứ khóc rống thật to. Mãi vào lúc mặt Trời lặn, thân hình này biến mất và phong cách thần tiên của lão hiện ra.

Bầy Tiên Nữ nhảy múa, cầm nhiều nhạc cụ trong tay, hầu hạ quanh lão, trong lúc hưởng đại vinh hiển như vậy, lão bước lên tiên cung trong khu rừng xoài diễm lệ.

Như vậy là do kết quả việc tặng trái xoài cho người đàn bà đang trì giới, lão được hưởng một khu rừng xoài rộng ba dặm, nhưng vì phải thọ lãnh nghiệp quả về việc nhận hối lộ và xử án sai lầm, lão phải xé thịt trên lưng ra mà ăn, đồng thời nhờ việc hành trì nửa ngày trai giới, lão tận hưởng vinh quang mỗi đêm cùng với mười sáu ngàn tiên nữ múa hát hầu hạ quanh mình.

Vào thời ấy, Vua xứ Ba La Nại hiểu rõ tội lỗi do tham dục gây ra, nên xuất gia tu hành, ẩn cư trong một thảo am nọ trên một vùng phong cảnh xinh đẹp miền hạ lưu Sông Hằng, sống khổ hạnh với những vật Ngài kiếm được.

Một ngày kia, có quả xoài chín trong rừng ấy bằng cái bát, rơi xuống Sông Hằng theo dòng sông đến nơi đối diện với chỗ định cư của vị khổ hạnh này. Trong khi Ngài đang súc miệng, chợt thấy trái xoài trôi giữa dòng, Ngài liền lội qua lấy nó mang về am, cất vào nội thất, nơi Ngài đốt ngọn lửa thiêng.

Sau đó khi xẻ xoài ra, Ngài chỉ ăn vừa đủ sống, rồi gói phần còn lại bằng lá chuối. Ngài cứ ăn dần dần trái xoài như vậy cho đến hết.

Khi đã ăn hết xoài, Ngài không thể ăn trái cây nào khác nữa, nhưng bị thói tham ăn của ngon trói buộc, Ngài thốt lời thề từ nay chỉ ăn xoài chín mà thôi, liền đến bờ sông nhìn xuống dòng nước, quyết không bao giờ đứng dậy cho đến khi tìm được một trái xoài!

Thế là Ngài nhịn ăn sáu ngày liền, cứ ngồi đó chờ mong tìm xoài, cho đến khi Ngài khô héo vì nắng gió.

Ðến ngày thứ bảy, một vị Nữ Thần xem xét sự việc ấy, thấy rõ lý do hành động của Ngài và suy nghĩ: Vị tu khổ hạnh này bị thói tham ăn câu thúc, cứ ngồi đó nhịn đói bảy ngày nhìn xuống Sông Hằng. Việc ta chối từ Ngài một quả xoài là điều sai lầm, vì nếu không có xoài, Ngài sẽ chết, vậy ta sẽ cho Ngài một trái.

Thế là Nữ Thần liền hiện lên giữa không gian trên Sông Hằng và nói với Ngài vần kệ đầu tiên:

Vì cớ sao Ngài ở bến sông

Suốt trong mùa hạ, nắng oi nồng

Bà La Môn hỡi, người thầm nguyện

Chủ đích gì Ngài vẫn ước mong

Nhà tu khổ hạnh nghe thế liền đáp lại chín vần kệ:

Bồng bềnh trôi nổi ở trên dòng

Ta thấy xoài kia, hỡi Nữ Thần

Vươn cánh tay dài ta lấy quả

Ðem về nhà cất ở gian trong

Ngọt ngào hương vị thật thanh tao,

Ta nghĩ của Trời quý giá sao!

Hình dáng đẹp tươi này sánh với

Chiếc bình lớn nhất khác chi nào!

Ta dấu xoài trong lá chuối cây

Cắt ra từng lát với dao này

Ít oi thực phẩm, phần ăn uống

Hợp với đời người đạm bạc đây

Phần ăn dần hết, bớt thèm thuồng

Tuy thế lòng ta vẫn tiếc luôn:

Trong các trái nào ta kiếm được

Ta đều không thấy vị thơm ngon!

Héo hắt ta đà mỏi mắt trông

Xoài ngon ta lượm ở bên dòng

Sẽ làm ta chết, ta lo sợ

Chẳng trái cây nào ta ước mong!

Vì sao giữ giới đã trình nàng

Cho dẫu ta đang ở cạnh dòng

Sóng vỗ chập chùng, bao loại cá

Ðầy đàn bơi lội cứ tung tăng

Nay ta cầu khẩn nói cho ta

Chớ sợ hãi rồi bỏ chạy xa,

Hỡi nàng tố nữ, là ai đó?

Tại sao nàng lại đến đây mà?

Thị nữ Chư Thiên đẹp tuyệt vời

Khác nào vàng óng ánh ngời soi!

Xinh như bầy hổ còn thơ dại

Dọc các sườn non vẫn giỡn chơi

Cũng ở nơi đây cõi thế gian,

Muôn vàn vẻ đẹp lắm hồng nhan

Song không ai giữa nhân thiên ấy

Lại dam khoe tươi với nữ hoàng!

Ta hỏi Nữ Thần muôn diễm lệ

Ðược Trời phú mọi vẻ thiên quang

Xin cho ta biết phương danh tánh

Nơi chốn xuất thân quí tộc nàng

Nữ Thần liền đáp tám dòng kệ

Trên dòng sông nước thật xinh tươi

Bên cạnh Hằng giang Đạo Sĩ ngồi

Bá chủ ngôi cao ta ngự trị

Dưới vùng sâu thắm, thủy triều trôi

Cầm quyền ngàn thạch động chung quanh

Che phủ rừng cây rậm lá xanh

Từ đó bao dòng tràn ngập chảy

Hòa theo với sóng nước sông mình

Mỗi khu rừng, mỗi khóm vườn cây

Ðưa đến Long Cung lắm suối đầy

Ðổ xuống bao nguồn nước xanh biếc

Ngập dòng bát ngát của ta này

Lệ thường trên các phụ lưu này

Nhiều trái sinh từ đủ loại cây

Ðào đỏ, chà là, sung mít vả

Với xoài, người thấy rõ ràng ngay

Trái kia đều mọc mỗi bên bờ

Rơi xuống vừa tầm với của ta

Ta bảo của Trời cho chánh đáng

Danh ta, ai có thể gièm pha?

Hiểu thông điều ấy lắng nghe đây

Hỡi Đại Vương thông tuệ, trí tài

Chớ đắm tham vào tâm dục vọng

Bỏ ngay lời nguyện đáng chê bai

Đại Vương xưa ngự trị giang sơn

Nay việc Ngài, ta chẳng tán dương

Muốn chết giữa mùa xuân tuổi trẻ

Rõ ràng biểu lộ đại điên cuồng

Giáo Sĩ, Chư Thần, quý hiển linh

Mọi người biết hạnh nghiệp uy danh

Của Ngài, mọi Thánh Nhân thanh tịnh

Dưới thế đã thành tựu hiển vinh

Quả thấy việc Ngài làm trái đạo

Hiền Nhân tất cả biểu đồng thanh!

Tiếp theo đó vị tu hành ngâm bốn vần kệ:

Ai biết đời người thật mỏng manh

Mọi loài Dục Giới thoáng qua nhanh

Không hề nghĩ đến điều sinh sát

Mà trú an trong mọi hạnh lành

Xưa nàng được hội Thánh tôn vinh

Là bậc làm công đức sáng danh

Nay lại giao du nhiều kẻ ác

Tiếng xấu nàng đang cố tạo thành!

Ví ta chết cạnh bến sông nàng

Hỡi Nữ Thần dung sắc vẹn toàn

Tiếng xấu trùm lên nàng tất cả

Khác nào mây phủ giữa không gian!

Vậy kiều tiên hỡi, lão van nàng

Hãy tránh xa điều ác, sợ rằng

Mặc lão chết đi, rồi hối tiếc

Làm trò đàm tiếu giữa trần gian!

Nghe nói vậy, Nữ Thần đáp lại:

Ta biết Ngài thầm kín ước mong

Và Ngài nhẫn nhục thật cam tâm

Ta cam đành phận làm tỳ nữ

Ðem đến xoài ngon tặng Đạo Nhân

Kìa ác dục từ bao thưở trước

Khó thay bỏ lạc thú phàm trần

Ngài đã đạt đến tâm thanh tịnh

Và trí bình an, phải giữ luôn.

Người nào đã thoát buộc ràng xưa

Lại bám xiềng gông trước chuyện thừa

Phóng dật bước vào phi thánh đạo

Chất chồng ác nghiệp mãi luôn mà.

Ta tặng Ngài điều nguyện khát khao,

Rồi Ngài tiêu hết mọi ưu sầu,

Ta đưa Ngài đến nơi êm mát,

Ngài sống đời an lạc biết bao!

Mây na, cu gáy, hạc, hồng nga,

Say mật quây quần cạnh khóm hoa,

Từng đám thiên nga cao vút lượn

Chim đồng, đàn khổng tước kiêu sa

Cùng nhau hòa tiếng ca êm ái

Ðánh thức rừng cây tỉnh giấc mơ!

Hoa nghệ, Ka Dam Ba rộ bông

Khác nào rơm rạ ở trên đồng

Chà là, thốt nót, nồng nàn chín

Tô điểm chung quanh lủng lẳng chùm

Và giữa cây cành đầy trĩu trái

Xoài cây sung mãn, hãy nhìn trông!

Vừa ca tụng thắng cảnh kia, Tiên Nữ vừa mang nhà tu hành đến đó, và mời Ngài ăn xoài trong rừng này cho đến khi thỏa thích, rồi nàng lại ra đi. Nhà Ẩn Sĩ ăn xoài mãi đến lúc đã hết cơn thèm, xong nghỉ ngơi chốc lát.

Sau đó loanh quanh thơ thẩn trong rừng, Ngài thấy vị Thần kia đang lúc chịu khổ sở đau đớn, Ngài không còn lòng dạ nào thốt ra lời hỏi han vị ấy, nhưng hoàng hôn đến, Ngài thấy vị Thần kia được bầy Tiên Nữ hầu hạ và thọ hưởng vinh quang của Tiên Giới, Ngài liền ngâm ba vần kệ:

Suốt đêm, quán đảnh tiệc Liên Hoan

Vương miện trên mày lại được mang

Tô điểm cổ tay, đầy ngọc quí

Sáng ngày đau khổ thật kinh hoàng

Hàng ngàn Tiên Nữ hộ quanh Ngài

Thần lực Ngài kia thật đại tài!

Kỳ diệu biết bao quyền biến đổi

Khổ hình lại hóa cảnh bồng lai!

Ngài đã làm sao phải đọa đày?

Tội gì Ngài hối tiếc ngày nay?

Sao từ lưng nọ nay Ngài phải

Móc thịt mình ăn lại mỗi ngày?

Vị Thần kia nhận ra Ngài, liền bảo:

Đại Vương không nhận ra tiểu thần, nhưng ngày xưa tiểu thần là Tế Sư của Đại Vương. Hạnh phúc này thần được hưởng hằng đêm là nhờ ơn Đại Vương, đó là kết quả hành trì nửa ngày Trai giới của thần, còn nỗi thống khổ thần phải chịu ban ngày là kết quả nghiệp ác mà thần đã làm.

Vì khi thần được Đại Vương cho ngồi ghế phán quan, thần đã ăn hối lộ, và phán xét sai trái, thần lại là kẻ xấu miệng, ưa phỉ báng sau lưng người khác, nên kết quả việc ác thần đã tạo những ngày đó, nay thần phải chịu khổ đau này.

Nói xong vị thần ngâm hai vần kệ:

Xưa thân thọ hưởng Thánh Tam Kinh

Song ác nghiệp giam hãm đắm mình

Việc ác đã làm cho bạn hữu

Bao năm ròng, cuộc sống trôi nhanh

 Kẻ nào phỉ báng các tha nhân

Cứ thích rình mò phá tiếng thơm

Phải móc thịt mình ăn lại mãi

Như ta việc ấy hiện đang làm!

Nói xong vị thần hỏi nhà tu khổ hạnh tại sao đã đến đây. Vị này liền kể hết đầu đuôi câu chuyện của mình.

Vị thần lại hỏi: Vậy xin thưa Thánh Giả, Ngài định ở đấy hay lại ra đi?

Ta không muốn ở lại, ta muốn trở về am.

Vị Thần đáp: Thưa Thánh Giả, lành thay, thần sẽ dâng cúng Ngài trái xoài chín thường xuyên đầy đủ. Rồi vị ấy dùng thần lực đưa vị Vua Ẩn Sĩ trở về vùng thảo am, khuyên Ngài sống thiểu dục ở đó, yêu cầu Ngài phải giữ tròn lời nguyền, rồi ra đi. Từ đó vị Thần kia thường xuyên cung cấp xoài cho nhà tu khổ hạnh.

Ngài thọ hưởng thứ trái cây ấy, hành trì những pháp môn tu tập để làm phát khởi thiền định và về sau được thọ sinh vào Phạm Thiên Giới.

Bậc Ðạo Sư, sau khi chấm dứt pháp thoại với các cư sĩ, liền thuyết các Thánh Đế và nhận diện tiền thân: Vào đoạn kết thúc các Thánh Ðế, một số người đạt Sơ Quả Dự Lưu, một số người đạt Nhị Quả Nhất Lai, lại có một số người khác đạt tam quả bất lai. Vào thời ấy Nữ Thần ấy là Uppalavannà Liên Hoa Sắc và Ẩn Sĩ khổ hạnh chính là ta.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần