Phật Thuyết Kinh Tọa Thiền Tam Muội - Phần Chín

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:17 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần

PHẬT THUYẾT

KINH TỌA THIỀN TAM MUỘI

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần  

PHẦN CHÍN  

Hỏi: Tôi không nói có thường là thật, vô thường là không thật.

Vì sao?

Vì Đức Phật đã dạy: Trong không có thường, vô thường cả hai việc đều không thể nắm bắt. Nếu chấp vào hai việc này thì đều là điên đảo.

Đáp: Ông nói không cùng với pháp tương ưng.

Vì sao?

Vì nói không có pháp cớ sao lại nói cả hai đều điên đảo?

Tất cả không, không thật có là thật, không điên đảo. Nếu ta phá thường mà chấp vào vô thường thì pháp của ta nên phá chứ không phải thật ta, phá điên đảo về thường nên quán vô thường.

Vì sao?

Vì năng lực của vô thường có thể phá thường. Như độc có thể phá độc khác. Như thuốc trị bệnh, thuốc cũng phải bỏ đi, nên biết thuốc tốt có thể trị bệnh nhưng khi bệnh lành rồi, nếu không bỏ thuốc, sau đó thuốc chính là bệnh. Ở đây cũng vậy, nếu chấp pháp vô thường phải nên phá vì không thật.

Ta không thọ nhận pháp vô thường làm sao phá?

Phật dạy: Khổ là nói thật khổ trong bốn đế.

Ai có thể làm cho an lạc?

Nhân của khổ là nhân thật.

Ai có thể làm cho chẳng phải nhân?

Khổ hết là thật hết.

Ai có thể làm cho không hết?

Diệt đạo là đạo thật.

Ai có thể làm cho chẳng phải đạo?

Như mặt trời, ai có thể làm cho lạnh đi?

Ai có thể làm cho mặt trăng nóng lên?

Gió có thể không lay động?

Bốn Đế này hoàn toàn không thể chuyển đổi. Ông đối với Ma Ha diễn không thể hiểu được, chỉ chấp vào tiếng nói thôi. Thật tướng của các pháp trong Ma Ha diễn là tướng thật. Tướng thật thì không thể phá, không có người tạo tác.

Nếu có thể phá hủy, có thể tạo tác thì đây chẳng phải là Ma Ha diễn. Như trăng mới mọc một đêm, hai đêm, khi nó mọc rất nhỏ, người mắt sáng có thể nhìn thấy, dùng tay chỉ cho người không thấy. Người không thấy này chỉ nhìn thấy ngón tay của người kia mà lầm là trăng.

Người mắt sáng nói: Kẻ ngu này tại sao chỉ nhìn ngón tay của ta. Ngón tay là duyên của trăng, ngón tay chẳng phải là mặt trăng kia. Ông cũng như vậy, tiếng nói chẳng phải là tướng thật, chỉ là tiếng giả biểu thị lý thật. Ông càng chấp vào tiếng nói thì càng mê lầm nơi tướng thật.

Nếu hành giả đạt được chánh tri kiến như vậy thì quan sát mười hai phần hòa hợp là hai phần nhân quả. Khi mười hai phần theo quả là khổ đế, mười hai phần theo nhân là tập đế, khi nhân diệt là diệt đế, thấy được nhân quả diệt tận là đạo đế. Bốn loại quán về quả là vô thường, khổ, không, vô ngã. Bốn loại quán về nhân là tập, nhân, duyên, sinh.

Hỏi: Quả có bốn loại sao chỉ gọi khổ đế, còn những thứ khác không có tên đế sao?

Đáp: Nếu nói vô thường là đế lại nghi ngờ, khổ đế cũng nghi ngờ, vô ngã là đế cũng nghi ngờ. Đây là một loại nạn xứ. Lại nữa, nếu nói vô thường là đế, không lỗi lầm thì không, vô ngã là đế cũng không lỗi lầm. Nếu vô thường, khổ, không, vô ngã là đế thì chỗ nêu lên là trùng lặp. Cho nên, đối với bốn nói một.

Hỏi: Khổ có tướng gì khác hay ở trong ba chỉ được nêu tên gọi?

Đáp: Khổ là sự chán, lo của tất cả chúng sinh, sự sợ hãi của chúng sinh. vô thường không như vậy. Nếu có người bị khổ bức bách thì suy nghĩ được về vô thường. Không có người muốn bị khổ.

Hỏi: Có người muốn cầm dao tự giết, kim châm, lửa đốt, thuốc đắng, vào nơi giặc giã, những việc như vậy có phải là cầu khổ không?

Đáp: Chẳng phải là muốn bị khổ, muốn được niềm vui lớn mà sợ khổ nên chấp nhận cái chết. Khổ là nạn thứ nhất. Lạc là lợi bậc nhất. Vì thế, nên xa lìa khổ thật thì được an lạc.

Cho nên, Đức Phật chỉ dùng phần quả gọi là khổ đế, chẳng phải vô thường, không, vô ngã là đế. Ở trong bốn đế này hiểu rõ về trí tuệ chân thật, không nghi ngờ, không hối tiếc, đó gọi là chánh kiến. Suy nghĩ về những việc này thì tăng trưởng lợi ích, đó gọi là chánh giác.

Trừ diệt tà mạng, thu giữ bốn loại tà ngữ, xa lìa bốn loại tà ngữ khác, thu giữ bốn loại chánh ngữ, trừ bỏ tà mạng, thu giữ ba loại nghiệp, trừ diệt ba loại tà nghiệp khác gọi là chánh nghiệp. Xa lìa những thứ tà mạng, đó gọi là chánh mạng.

Khi quán như vậy mà tinh tấn là chánh phương tiện. Nhớ nghĩ việc này không tán loạn gọi là chánh niệm. Suy nghĩ về việc này không lay động gọi là chánh định. Chánh giác như Vua, có bảy việc luôn theo, gọi là đạo đế.

Dốc lòng siêng năng cầu đạo gọi là tinh tấn căn. Dốc lòng nhớ nghĩ không quên mất gọi là niệm căn. Tâm an trụ một chỗ, không giong ruổi, tán loạn gọi là định căn. Suy nghĩ, phân biệt biết về những việc vô thường… gọi là tuệ căn. Những căn này được tăng trưởng về sức lực gọi là năm lực.

Hỏi: Trong tám chánh đạo đều đã nêu về tuệ, niệm, định… tại sao trong căn, lực lại còn nêu?

Đáp: Lúc nhập theo hành, ban đầu được lợi ích nhỏ, lúc ấy gọi là căn. Năm việc này tăng trưởng đạt được năng lực, gọi là lưc. Ban đầu nhập trung đạo của kiến đế vô lậu, công đức này gọi là tám chánh đạo.

Khi đi vào tư duy về đạo gọi là bảy giác ý. Ban đầu nhập trung đạo quán niệm về thân, thọ, tâm, pháp, thường dốc lòng nhớ nghĩ, đó gọi là bốn niệm chỉ. Như vậy đạt được bốn loại tinh tấn của pháp vị thiện, đó gọi là bốn chánh cần.

Như thế, pháp môn ban đầu là dục, tinh tấn, định, tuệ, ân cần tinh tấn cầu tự tại như ý, đó gọi là bốn thần túc. Tuy goi là bốn niệm chỉ, bốn chánh cần, bốn thần túc, năm căn… nhưng đều tùy theo hành ban đầu, lúc sau, nhiều, ít, hành duyên theo từng bậc, mỗi mỗi đều được đặt tên.

Ví như bốn đại, mỗi mỗi thứ đều có đủ bốn đại, chỉ đại nào nhiều thì đặt tên đó. Nếu địa chủng nhiều, thủy, hỏa, phong ít thì gọi là địa đại. Thủy, hỏa, phong cũng như vậy. Như trong ba mươi bảy phẩm này, mỗi mỗi đều có đủ các phẩm khác. Như trong bốn niệm chỉ đều có bốn chánh cần, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy giác ý, tám đạo…

Như vậy, quan sát mười hai phần, bốn đế, thực hành bốn niệm chỉ, bốn chánh cần, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy giác ý, tám chánh đạo thì tâm hành giả được an lạc. Lại dùng pháp này độ thoát chúng sinh. Dốc lòng thệ nguyện tinh tấn cầu Phật.

Lúc ấy trong tâm tư duy quán niệm: Con hiểu rõ, quán biết đạo này không nên thủ chứng.

Có hai việc cần thiết nên chưa thể nhap Niết Bàn:

1. Đại bi, không lìa bỏ chúng sinh.

2. Biết rõ tướng thật của các pháp.

Các tâm, những pháp của tâm đều từ nhân duyên sinh ra.

Nay ta làm sao tùy theo pháp không thật này được, phải tự suy nghĩ nhằm hội nhập vào, quán kỹ mười hai nhân duyên, nhận biết nhân duyên là pháp gì?

Lại càng suy nghĩ: Bốn loại duyên này là: Nhân duyên, thứ đệ duyên, duyên duyên, tăng thượng duyên. Năm nhân làm nhân duyên, trừ tâm sau cùng của A La Hán trong quá khứ, hiện tại, tâm tâm sở pháp của quá khứ, hiện tại. Thứ đệ duyên, duyên duyên, tăng thượng duyên này đều duyên nơi tất cả pháp.

Lại tự suy nghĩ: Nếu nói pháp có trong nhân duyên trước thì không nên nói pháp này từ nhân duyên sinh. Nếu không có cũng không nên nói trong nhân duyên sinh ra nửa có nửa không, cũng không nên nói nhân duyên sinh thì làm sao có nhân duyên.

Nếu pháp chưa sinh, nếu tâm tâm sở pháp của quá khứ bị mất đi thì làm sao có thể tạo thứ đệ duyên?

Nếu diệu pháp trong Phật Pháp không có duyên thì Như Lai làm sao là duyên duyên?

Nếu các pháp thật không có tánh thì có pháp cũng không thể nắm bắt. Nếu nhân duyên từ nơi quả ra, do đây có kia thì đây nói không như vậy. Nếu mỗi mỗi sai khác trong nhân duyên, nếu hòa hợp một chỗ thì quả này không thể được.

Làm sao ngoài nhân duyên sinh ra quả, trong nhân duyên không có quả?

Nếu trong nhân duyên trước không có quả mà sinh ra thì tại sao ngoài nhân duyên sinh ra quả?

Cả hai đều không. Quả thuộc về nhân duyên mà cũng ngoài nhân duyên sinh. Nhân duyên này không tự tại thuộc nhân sinh.

Quả này thuộc nhân duyên khác cớ sao không tự tại?

Nhân duyên có thể sinh quả. Cho nên, quả không từ nhân duyên mà có, cũng không từ chẳng phải nhân duyên mà có, tức chẳng phải quả. Quả không có nên duyên và phi duyên cũng không có.

Hỏi: Đức Phật dạy: Mười hai nhân duyên thì vô minh duyên nơi các hành.

Cớ sao ông nói không có nhân quả?

Đáp: Trước đã trả lời đầy đủ, không nên vấn nạn lần nữa, nếu vấn nạn lại thì phải trả lời lại.

Đức Phật dạy: Mắt nhân nơi sắc, duyên với ngu si bên ngoài sinh ra nhớ nghĩ sai lệch thì si là vô minh. Trong đó, vô minh nương tựa vào đầu mà tồn tại.

Nương tựa vào mắt chăng, trong sắc chăng, thức chăng?

Không nên nương tựa vào mắt mà tồn tại. Nếu nương tựa vào mắt mà tồn tại thì không nên đối đãi với sắc, thường thích ứng với si. Nếu nương vào mắt mà tồn tại thì không nên đối đãi với mắt tức là ngoài si ra cái gì can dự vào việc của ta. Nếu nương tựa vào thức mà tồn tại thì thức không có sắc, không chướng ngại, không tiếp xúc, không phân chia, không nơi chốn.

Vô minh cũng vậy, làm thế nào có thể tồn tại?

Cho nên, vô minh chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, chẳng phải chặng giữa, không đến từ đời trước, cũng không sang đời sau, chẳng phải từ phương Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn hướng, trên, dưới đến, không có pháp thật. Tánh vô minh cũng thế, hiểu được tánh vô minh thì biến đổi được vô minh. Mỗi mỗi suy xét nó vì si không thể nắm bắt.

Vô minh duyên nơi hành là thế nào?

Như hư không không sinh, không diệt, không có, không mất, bản tánh thì thanh tịnh. Vô minh cũng như vậy, không sinh, không diệt, không có, không mất, bản tánh thanh tịnh.

Cho đến, sinh duyên nơi lão, tử cũng vậy. Bồ Tát quán xét mười hai nhân duyên như vậy, nhận biết chúng sinh hư dối, bị lệ thuộc vào nạn khổ nên có thể hóa độ. Nếu các pháp có tướng thật thì khó có thể độ được. Suy nghĩ như vậy thì diệt trừ ngu si.

Nếu tâm Bồ Tát nhiều hiểu biết, suy nghĩ thì thường nhớ nghĩ đến A Na La Na, khi hít vào, thở ra đếm một cho đến mười. Mỗi mỗi tâm không làm cho giong ruổi, tán loạn. Bồ Tát từ pháp môn này đạt được nhất tâm, diệt trừ dục hành của năm thứ ngăn che.

Bồ Tát thấy đạo nên thực hành ba loại nhẫn: Pháp sinh nhẫn, nhu thuận pháp nhẫn, vô sinh nhẫn.

Sinh nhẫn là như thế nào?

Tat cả chúng sinh hoặc chửi, hoặc đánh, hoặc giết, tạo đủ thứ việc ác mà tâm không lay động, không sân, không hận, không chỉ nhẫn nhục mà còn thể hiện từ bi. Những chúng sinh này cầu các điều tốt đẹp, nguyện được tất cả, tâm của người nhẫn không xả bỏ họ.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần