Phật Thuyết Kinh Tọa Thiền Tam Muội - Phần Một

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:17 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần

PHẬT THUYẾT

KINH TỌA THIỀN TAM MUỘI

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần  

PHẦN MỘT  

Khó gặp Đạo Sư dạy

Nghe rồi vui cũng khó

Bậc Thánh Nhân thích nghe

Kẻ trí kém lại chán.

Chúng sinh thật đáng thương

Rơi đường hiểm già chết

Nô lệ cho ái dục

Chỗ sợ, ngu chẳng sợ.

Thế Giới lớn hoặc nhỏ

Các pháp không thường còn

Tất cả chẳng bền chắc

Tạm hiện như tia chớp.

Thân này thuộc già chết

Chỗ quy tụ các bệnh

Da mỏng che vật bẩn

Ngu, lầm bị lừa dối.

Người thường bị giặc già

Tiêu diệt sức trẻ, mạnh

Như tràng hoa héo khô

Tàn tạ, hết tươi tốt.

Công Đức Vua Đảnh Sinh

Cùng chung tòa Đế Thích

Phước báo thật vô kể

Ngày nay còn gì đâu.

Vua ấy, Cõi Trời người

Dục lạc là hơn hết

Lúc chết rất thống khổ

Do đó nên tỉnh ngộ.

Các dục ban đầu vui

Về sau thành khổ lớn

Như oán lúc đầu thiện

Sau thành họa diệt tộc.

Thân là vật chứa bẩn

Chín lỗ thường thải uế

Như ghẻ nhọt Na Lợi

Thuốc hay chẳng trị lành.

Xương, sức xe yếu kém

Gân mạch buộc thức chuyển

Người cho là xe tốt

Tham đắm không hổ thẹn.

Nơi chứa thây người chết

Phơi đầy khắp gò nổng

Khi sống được nuông chiều

Lúc chết đều vất bỏ.

Thường nên nghĩ như vậy

Nhất tâm quán, không loạn

Trừ tối tăm, ngu si

Cầm đuốc để soi sáng.

Nếu lìa bốn niệm chỉ

Ác nào tâm không tạo

Như voi thoát móc sắt

Không theo sự chăn dắt.

Ngày nay tạo nghiệp này

Ngày mai tạo nghiệp khác

Tham vui không thấy khổ

Bất chợt giặc chết tới.

Hối hả làm việc mình

Việc khác cũng chẳng xong

Giặc chết không chờ đợi

Đến thì không thoát khỏi.

Như nai vì khát nước

Nên tìm đến dòng suối

Thợ săn không thương xót

Chẳng cho uống, lại giết.

Người ngu cũng như vậy

Chuyên làm đủ các việc

Chết đến chẳng hẹn trước

Ai sẽ giúp cho ngươi?

Tâm người ưa giàu sang

Năm dục lòng chưa đủ

Các vị đại Quốc Vương

Cũng không khỏi nạn ấy.

Tiên Nhân trì chú thuật

Cũng không thoát sinh tử

vô thường voi lớn giẫm

Đạp sâu, kiến thành đất.

Cho đến tất cả người

Chư Phật Bậc Chánh Giác

Vượt khỏi dòng sinh tử

Lại cũng chẳng thường còn.

Vì vậy phải nên biết

Những gì ngươi ưa thích

Đều nên sớm xa lìa

Dốc lòng cầu Niết Bàn.

Sau khi bỏ thân này

Ai sẽ chứng biết ta?

Lại được gặp pháp báu

Và người không được gặp.

Mặt trời Phật xuất hiện

Diệt trừ mọi tối tăm

Phóng các luồng ánh sáng

Dạy người đạo, phi đạo.

Ta từ chốn nào đến

Rồi sẽ sinh vào đâu?

Ở đâu được giải thoát

Nghi này ai sẽ rõ?

Phật Đấng Nhất Thiết Trí

Lâu lắm mới xuất hiện

Nhất tâm chớ buông lung

Trừ nghi ngờ cho ông.

Chẳng ưa thích lợi lộc

Tham đắm tâm xấu ác

Vì nuôi dưỡng chúng sinh

Nên cầu tướng pháp thật.

Ai biết được khi chết

Sẽ sinh cảnh giới nào?

Ví như đèn trước gió

Chẳng biết lúc nào tắt.

Đến đạo pháp chẳng khó

Bậc Thánh đã chỉ dạy

Giảng trí và nơi trí

Cả hai chẳng nương ngoài.

Nếu ông không buông lung

Một lòng thường hành đạo

Không lâu chứng Niết Bàn

Chốn an lạc bậc nhất.

Bậc trí gần người hiền

Hết lòng kính pháp Phật

Chán thân uế, bất tịnh

Lìa khổ được giải thoát.

Thanh vắng, tu tịch tĩnh

Ngồi kiết già giữa rừng

Giữ tâm, không buông lung

Ý tỏ rõ các duyên.

Nếu trong hữu không chán

Ngủ yên không tự tỉnh

Không nghĩ đời vô thường

Đáng sợ mà không sợ.

Phiền não sâu không đáy

Biển sinh tử không bờ

Thuyền vượt biển chưa tạo

Sao an vui ngủ nghỉ?

Do vậy nên giác ngộ

Chớ vì ngủ che tâm

Trong bốn việc cúng dường

Biết lượng, biết vừa đủ.

Nỗi sợ lớn chưa thoát

Nên phải dốc tinh tấn

Khi các khổ ập tới

Hối hận không kịp nữa.

Đắp y ngồi bên cây

Đúng pháp mà thọ thực

Chớ vì tham vị ngon

Mà dẫn đến tự hoại.

Ăn xong rõ vị, xứ

Ngon, dở đều không khác

Ưa thích sinh buồn khổ

Vì vậy chớ tham vướng.

Hành nghiệp trong thế gian

Tốt đẹp, xấu đều thay đổi

Tất cả đã nhận đủ

Vậy nên tự điều phục.

Nếu ở loài súc sanh

Nhai cỏ làm vị ngon

Địa ngục nuốt thỏi sắt

Nung cháy nóng hừng hực.

Hoặc loài quỷ Bệ Lệ

Máu mủ và phân giải

Đủ các thứ uế tạp

Cho đó là vị ngon.

Hoặc nơi cung điện trời

Xem đủ loại bảy báu

Ăn toàn vị Tô Đà

Thiên nữ tạo vui thú.

Sinh cõi người giàu sang

Đầy đủ bảy vị ngon

Đều đã từng trải qua

Sao nay còn tham luyến?

Qua lại trong thế gian

Nhàm chán việc vui, khổ

Tuy chưa được Niết Bàn

Nên dốc cầu an lạc.

Người học thiền mới đến gặp thầy, thầy nên hỏi: Ông có trì giới thanh tịnh?

Chẳng phạm tội trọng, tà, ác gì chăng?

Nếu đáp: Giới luật của năm chúng đều giữ thanh tịnh, không phạm tội trọng, tà, ác, thì sau đấy mới chỉ dạy về đạo pháp.

Nếu đáp: Đã phá giới, thì vị thầy phải hỏi: Ông đã phá giới nào?

Nếu trả lời: Đã phạm giới trọng.

Thì thầy nên dạy: Như người bị cắt mất tai, mũi, không cần phải soi gương nữa. Hãy trở về siêng năng tụng Kinh, khuyến khích tạo phước, có thể gieo trồng nhân duyên đạo pháp cho đời sau, đời này xem như đã bỏ. Ví như cây khô dù có tưới nước, chăm sóc cũng không thể ra lá, đơm hoa và kết trái.

Nếu phá các giới khác thì thầy nên dạy người ấy đúng như pháp sám hối. Nếu đã được thanh tịnh, như vị thầy chứng được thiên nhãn, hoặc tha tam trí, thì theo bệnh mà thuyết giảng pháp, dẫn đến với đạo.

Nếu thầy chưa chứng đạt thần thông thì nên xét xem hình tướng, hoặc hỏi người đó:

Trong ba thứ độc, ông vướng vào loại nào?

Dâm dục nhiều chăng?

Giận dữ nhiều chăng?

Ngu si nhiều chăng?

Làm thế nào để quán xét về tướng mạo?

Nếu là tướng nhiều dâm dục thì người đó nhanh nhẹn, có nhiều thê thiếp, lắm lời, dễ tin, dáng dấp phong lưu, nói năng lưu loát, dễ hiểu, ít khi giận dữ và lo buồn.

Có nhiều năng khiếu về kỹ thuật, lãnh hội tốt, kiến thức rộng, ưa thích văn chương, khéo biện luận, thường quán xét về lòng người, có nhiều lo sợ. Ở trong nhà ưa thích mặc áo mỏng, ham muốn về nữ sắc… tham vướng về đồ nằm, y phục, trang sức hương hoa.

Tâm ý mềm mỏng, hay yêu thương, lời lẽ hoa mỹ, thích làm việc phước thiện. Ý muốn sinh lên Cõi Trời, không còn các nạn khổ, phân biệt kẻ đẹp người xấu, ưa tín nhiệm phụ nư, lửa dục luôn nung nấu, tâm nhiều thay đổi, hối tiếc, thích tự trang sức, ưa xem tranh vẽ nhiều màu, keo kiệt đối với vật của mình, tham cầu vật của người.

Thích giao kết với bạn bè, không thích ở một mình, chú trọng về chỗ ở, chạy theo thế tục, chợt kinh, chợt sợ, tâm chí như khỉ vượn, nhận thức cạn cợt, làm việc không suy nghĩ, xem nhẹ việc làm, hành động theo sở thích.

Thích khóc thích cười, thân thể ưa tiếp xúc sự mềm mại, không kham noi những khổ cực, lạnh nóng, dễ chán nản, dễ ưa thích, không thể nhẫn đối với các việc, được ít vui nhiều, mất ít sầu lớn, tự bày ra rồi tự che giấu.

Thân ấm, mồ hôi hôi, da mỏng, tóc mềm, mặt nhiều nếp nhăn, nhiều điểm trắng, cắt móng tay, cạo râu nhẵn, đánh răng kỹ, đi ra ưa mặc đồ sạch sẽ, học thì không chuyên cần, thích dạo chơi đây đó, đa tình, nhiều mong cầu, chấp vào thường kiến, nương nơi người có đức, vồn vã thăm hỏi, thích sử dụng lời nói của kẻ khác, gượng vui.

Ra vẻ chịu đựng, nghe sự việc chóng hiểu, nhanh nhẹn trong công việc, phân biệt tốt xấu, thương xót người nghèo khổ, tự đại, hiếu thắng, không chịu sự lấn lướt, ưa thích bố thí, dẫn dắt người làm thiện, được thức ăn ngon thì ban cho mọi người, không để tâm việc nhỏ gần chỉ để chỗ lớn xa, mắt tham đắm nơi sắc, công việc ít khi hoàn thành.

Không có suy nghĩ sâu kín, biết phong tục, tập quán ở đời, quán xét về nhan sắc, dò biết mặt trái nơi lòng người, lời nói hoa mỹ, trí tuệ ưa biện giải, kết bạn không bền, tóc thưa, ít ngủ nghỉ, đi, đứng, nằm, ngồi không mất oai nghi, của cải hiện có thường đem cứu giúp, sau đó lại hối tiếc, thích làm điều nghĩa, vội vàng làm cho được, nhưng lại mau quên, nơi mọi cử động khó tự cải đổi, khó xa lìa tham dục, gây các tội nhỏ.

Những thứ tướng trạng như vậy là tướng dâm dục.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần