Phật Thuyết Kinh Tối Thắng Vấn Bồ Tát Thập Trụ Trừ Cấu đoạn Kết - Phẩm Mười - Phẩm Thành đạo - Tập Hai

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần

PHẬT THUYẾT KINH

TỐI THẮNG VẤN BỒ TÁT

THẬP TRỤ TRỪ CẤU ĐOẠN KẾT

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần  

PHẨM MƯỜI

PHẨM THÀNH ĐẠO  

TẬP HAI  

Đối với bên trong có duyên khởi, diệt hay không duyên khởi, diệt, hoặc do tham dục, sân hận, ngu si, bảy kết sử, bảy mạn, bảy kiết trụ, bảy giải, bảy quán, bảy nhẫn tuệ nghiệp, hoặc nhân đây mà có duyên khởi, diệt hay không duyên khởi, diệt đều do nơi tâm, nhân nơi tâm sinh ra bốn mươi lăm pháp tối tăm này ý thức đã tạo tác mà không tự biết, ý không biết ý thì cái gì là nguồn gốc, đã không nguồn gốc thì làm gì có ý?

Bồ Tát phân biệt tâm, ý, thức, pháp, thông đạt qua lại không có nơi chốn. Đó là Bồ Tát dùng quán giải thoát biết nguồn gốc của tâm duyên không thể nắm bắt được, cũng không thấy tâm hợp với thiện, ác, không hợp chẳng hợp thích ứng với quán giải thoát.

Bồ Tát lại suy nghĩ mười hai nhân duyên sâu xa không cùng tận: Đối với quả đã trồng thì báo ứng không mất, đối với pháp giới tâm không đắm nhiễm. Quán pháp giới từ nhân duyên sinh thì biết rõ các pháp không thật có, tự nhiên vắng lặng, nương nhau tồn tại, chỗ tạo tác của tâm không có hình chất cũng không thấy được, tìm tướng mạo cũng không thấy màu sắc hình tướng.

Bồ Tát thông đạt thánh tuệ liền nhập vào pháp vô sinh, không còn sinh khởi, không trụ ở quả vị Thanh Văn, Duyên Giác, thường tự giữ ý thuận theo Phật Pháp, bên trong vui mừng tự suy nghĩ: Nay ta đã hàng phục được tâm, bỏ tham chấp sinh tử, nhập vào biển trí tuệ, do đó ta được đạo vô thượng chân chánh thành Tối Chánh Giác. Đó là Bồ Tát đối với pháp Niệm xứ được tự tại.

Bồ Tát đối với pháp niệm xứ, quán sát phân biệt như thế nào?

Đó là Bồ Tát tu tập chánh pháp ban đầu không quên mất cho đến lúcthành Phật Đạo cũng không xã bỏ, bên trong tự quán pháp mình, bên ngoài quán pháp người.

Bồ Tát biết tướng các pháp không một, không hai, cũng không ba, bốn, đều quy về nơi không, vô tướng, vô nguyện, các pháp đều bình đẳng, xa lìa tà kiến, phân biệt nguồn gốc của mười hai duyên khởi, thường nhớ nghĩ sự thành, bại, thạnh, suy của pháp giới, hữu lậu, vô lậu, hữu vi, vô vi, pháp thiện, pháp ác, hữu ký, vô ký.

Lúc ấy, Bồ Tát suy nghĩ quán sát tự sinh thức tưởng, không lệ thuộc pháp giới, không thấy phi pháp và ngã, cũng không khởi niệm phân biệt người, tuổi thọ. Hoặc có Bồ Tát tự khởi pháp tưởng chấp trước ngã của mình, nuôi dưỡng mạng sống kia, suy nghĩ về đoạn diệt, vô thường là có thường, vạn vật trong thiên hạ đều không tồn.

Đối với vô thường, chấp không có hợp tan, hoặc đối với các pháp sinh tưởng điên đảo: Không tự nó thường không, có tự nó thường có, không thì không sinh có, có thì chẳng sinh không, không tự nhiên sinh, không tự nhiên diệt, không chẳng tự thấy ngã tự nhiên có, có chẳng tự thấy ngã tự nhiên không.

Bồ Tát bậc thứ mười dùng trí tuệ thông suổt phân biệt có không, diệt trừ chấp thường về ngã, nhân, tuổi thọ đều bình đẳng không thật có, quán sát bậc nhất nghĩa không vi diệu, bậc nhất tánh không cũng không sinh có, có tự thường có, không biết sự không của không, không tự nó thường không, không biết sự có của có.

Bồ Tát dùng tuệ phân biệt: Có tự tánh là không, không tự tánh cũng không, không chẳng tạo có, có chẳng tạo ra không. Chấp có, chấp không là pháp sinh tử không phải là pháp Niết Bàn bậc nhất, không tự nó chẳng phải là không, không mà không biết không, không tự tánh là không.

Có tự nó không phải là có, có mà không biết có, có tự tánh là không, có tức là không, không tức là có, cho nên, đối với tánh các pháp, Bồ Tát phân biệt từng loại, suy nghĩ phân biệt tất cả các pháp là thường, vô thường, sinh diệt thường đoạn, hữu vi, vô vi, hữu lậu, vô lậu, pháp thiện, pháp ác, hữu ký, vô ký, có tên gọi, không có tên gọi cũng đều vắng lặng.

Cũng không thể ghi nhận được cái tịch diệt đó, tự quán pháp mình và quán pháp người, đối với các tưởng chấp trước cũng không suy nghĩ về tưởng, hiểu rõ pháp không, vô tướng, vô nguyện, đối với pháp giới tìm cầu Phật Pháp và cấm giới đều không nơi chốn, cũng không đường đi, không thấy đồ người đạt đến giải thoát.

Cũng không thấy chìm đắm trong sinh tử, ở trong pháp đó khai mở dẫn dắt tất cả chúng sinh, có thể phát tâm đại bi không bị ngăn che, đối trị các bệnh phìên não, hiểu rõ các kết sử trói buộc là không thật có, phân biệt năm đường, bình đẳng dạy dỗ, tuy ở trong Cõi Dục mà không có khiếp sợ, hiểu rõ ba độc nên không bị ngăn ngại, đạt đến chỗ này gọi là bậc Đại Sĩ.

Bồ Tát an trụ vào đạo phương tiện quyền xảo không thể nghĩ bàn, khổ, tập, diệt, đạo đều trở về tự nhiên, ở trong tự nhiên không thấy sinh diệt, tâm ý như hư không, không thật có, không nghĩ đến chỗ ở, tìm cầu pháp giới, hư không giới và chỗ ở của chúng sinh cũng không chỗ trụ, tất cả các pháp đều bình đẳng như hư không.

Đó là Bồ Tát tùy lúc dẫn dắt thuận theo đạo pháp, tuy độ chúng sinh cũng không thấy độ Bồ Tát nào quán pháp tư thân và quán pháp người khác thì có thể tự ngăn chận tâm đạt được trí tuệ, biết rõ các pháp đều trở về giải thoát, có thể giáo hóa tất cả chúng sinh, hiển bày đạo chân chánh vô thượng, được pháp vô vi tự nhiên, không thấy chỗ sinh, không bỏ pháp vô sinh, vô khởi diệt.

Đó là Bồ Tát đối với pháp Niệm xứ được tự tại.

Đức Phật lại bảo Tối Thắng: Bồ Tát thứ mười phải nên suy nghĩ pháp tứ chánh cần, thường nhớ nghĩ phân biệt hiện tại trước mặt pháp ác chưa sinh thì ngăn chận không cho sinh, pháp ác đã sinh thì làm đoạn diệt, pháp thiện chưa sinh thì mong cầu sinh khởi.

Pháp thiện đã sinh thì làm tăng trưởng, thường phải siêng năng, tinh tấn tu tập, tự giữ tâm mình không cho tán loạn, từ xưa đến nay, nhờ công đức tạo được nên không mất oai nghi phép tắc, hành động bình đẳng nên có thể chế ngự được tâm, suy xét những lỗi lớn trong tai họa là do ba căn bất thiện làm đọa vào nẻo ác, luân hồi trong năm đường không có dừng nghỉ.

Vì thế Bồ Tát phải siêng năng, tinh tấn tu hành mới có thể tiêu diệt nguồn gốc ác bất thiện, không còn sinh loạn tưởng nữa, thường tự quán sát kết quả của pháp bất thiện. Việc làm xấu ác này không phải đạo chân chánh.

Nay ta xa lìa các việc phi pháp, tu tập bậc nhất nghĩa, diệt hết phiền não, trừ sạch sân giận, phân biệt nguồn gốc mười hai nhân duyên, pháp lành chưa có thì tạo lập công đức làm sinh mầm móng, không cho hư hoại, làm thanh tịnh tâm mình không còn lỗi lầm, không bị lệ thuộc vào các dục trói buộc trong ba cõi, xa lìa sự đắm trước, hoàn toàn không còn vướng mắc, có thể dẫn đến nhất thiết trí, đối với các tuệ sâu xa không bị tổn giảm cho nên công đức đã đạt được đều do siêng năng mà thành đạo quả. Đó là Bồ Tát đối với pháp Tứ chánh cần được tự tại.

Bồ Tát này lại nên suy nghĩ, phân biệt thần túc. Bồ Tát tuy được định ý thần túc, lúc sắp thành đạo ở địa thứ mười cần phải tu tập định như lúc mới học, phải chuyen tâm nhập định, suy nghĩ về bốn vô lượng tâm, tăng thêm tâm thương xót tất cả.

Bồ Tát cân bằng thân và tâm, chuyên chú nhập vào thiền thứ nhất lại nhập vào thiền thứ hai, lại chuyên tâm ra khỏi Sơ Thiền, nhập vào thiền thứ ba. Ở trong thiền ấy nhất tâm suy nghĩ, ra khỏi thiền thứ ba lại nhập Sơ Thiền.

Ở trong thiền ấy biến hiện thần túc, ra khỏi Sơ Thiền rồi nhập vào thiền thứ tư. Khi ấy Bồ Tát ở trong thiền thứ tư biến hiện thần túc. Dùng thân nâng tâm, dùng tâm hỗ trợ thân, ban đầu như hạt cải, chuyển dần lớn như hạt đậu rồi lớn dần như trái nho, siêng năng tăng thêm cho đến hai mươi mốt ngày, thân, tâm nhẹ nhàng không còn ngăn ngại.

Cho nên Bồ Tát lại nhập vào định ý và thí nghiệm thần túc, có thể nương thần túc biến hóa ra một ức người, đứng vững không thoái lui, thành tựu định thần túc. Bồ Tát lại thị hiện thần thông khắp nơi không cùng tận, từ cõi Diêm Phù Đề đến Cõi Trời thứ nhất, thứ hai, thứ ba cho đến Cõi Trời thứ sáu.

Chư Thiên thấy rồi đều nghĩ thế này: Hôm nay Bồ Tát thị hiện thần thông phát ra ánh sáng chiếu khắp nơi Chư Thiên chúng ta cùng nhau ủng hộ Bồ Tát thành tựu Phật Đạo. Chư Thiên dùng các loại hương hoa, y phục Cõi Trời, cam lồ tự nhiên để cúng dường. Trong trường hợp này, Bồ Tát dẫn dắt Chư Thiên, loài người đạt được thần túc, đều được lợi ích.

Trong quá khứ hằng hà sa Bồ Tát tu tập mười địa được hạnh thanh tịnh đều ở nơi đây biểu hiện thần túc, nhất tâm quán sát, tìm cầu phương cách, có thể hiện các việc biến hóa, dùng sức tinh tấn thành tựu đạo quả, hành động tự tại không gì nghịch lại được, muốn giáo hóa ai thì hàng phục được họ, xét rõ căn cơ đều khiến được đầy đủ kết quả, ma hoặc ma Trời không thể quấy nhiễu.

Lúc ấy, Bồ Tát dùng thiên nhãn quán sát tam thiên đại thiên Thế Giới, có người có dâm dục, sân hận, ngu si, không dâm dục, sân hận, ngu si. Có người có hạnh thanh tịnh, có người có định ý, không có định ý, có người có loạn ý, không có loạn ý.

Bồ Tát đều biết và phân biệt ý muốn của các căn. Bồ Tát dùng thiên nhĩ nghe tiếng của chúng sinh có thể tùy theo thứ lớp biết âm thanh của họ để giáo hóa. Bồ Tát dùng sức thần túc nhập vào chánh định thấy rõ tất cả ý muốn căn tánh của người, thấy được nguồn gốc từ đâu đến. Đó là Bồ Tát thực hành thần túc.

Lúc ấy, Bồ Tát lại suy nghĩ: Căn, lực, bảy giác chi, tám Thánh Đạo, tín, niệm, tinh tấn, định ý, tuệ căn. Bồ Tát thường dùng trí thần thông vi diệu, quán sát có bao nhiêu chúng sinh thành tựu, căn, lực, giác chi, Thánh Đạo, các tuệ thần thông.

Lúc ấy, Bồ Tát dùng tha tâm thông quán chúng sinh ở trước mặt: Hoặc có người tín căn thành tựu đầy đủ, thường tu pháp tám Thánh Đạo bình đẳng, tâm luôn chánh kiến không ở cõi ma, tin biết sinh tử thống khổ vô lượng, lại biết Niết Bàn an lạc vô vi, tin có Tam Bảo sáng suốt ở thế gian, không tin chín mươi sáu phái ngoại đạo. Đối với các thông tuệ không còn nghi ngờ, tích chứa nhiều công đức làm hưng thạnh chánh pháp, ở trong đơ giữ vững tâm tin không khó.

Bồ Tát dùng trí thần thông vi diệu không chướng ngại, quán sát các chúng sinh ấy ngày đêm tu hành tinh tấn, ngồi, nằm, kinh hành, tâm không lười biếng, nhờ sự tinh tấn nên các căn đầy đủ giống như y Trời bao trùm khắp bốn phương trên, dưới bằng nhau không chênh lệch. Bấy giờ, có người đến một phía cầm một góc y, đưa lên, di chuyển thì ba góc kia di chuyển theo, tinh tấn căn cũng vậy.

Nếu có người tu tập tinh tấn căn thì nên biết người ấy đầy đủ tất cả các pháp. Nhờ có tinh tấn biến thành tựu niệm căn. Tâm không tán loạn gọi là định căn. Thường dùng phương tiện giữ tâm một chỗ, phân biệt thiện ác, tâm như hư không, đó là tuệ căn.

Bồ Tát bậc thứ mười vào định thần thông vi diệu, đoán biết tướng thọ thai của chúng sinh, phân biệt nam, nữ, nam căn, nữ căn, một đời, mười đời, trăm đời, ngàn đời đến vô số đời đều hiểu rõ không cùng tận.

Đó là Bồ Tát tu tập đầy đủ pháp môn, suy nghĩ các quả vị, trí tuệ biện tài không ai sánh bằng, ngay nơi tâm niệm chấn động đến các cõi nước khắp mười phương, đi khắp các cõi nước Chư Phật, chiếu ra ánh sáng.

Người nào thấy ánh sáng này đều được độ thoát. Bồ Tát đối với các cõi nước lập ra pháp luật, khiưến họ tuân theo, phụng từ Kinh Điển mà hiển thánh, cũng làm an lạc lợi ích dân chúng nước ấy, đẫn dắt họ thấm nhuần diệu pháp, nghe không nhàm chán, thường hiểu rõ dòng họ.

Quyến thuộc dân chúng nước ấy, giáo hóa không phân biệt, cũng quán biết tâm ý chúng sinh, liền diễn nói sáu pháp Ba la mật, chế ngự loạn niệm của chúng sinh, dần dần cứu giúp tất cá, tự làm vị dẫn đường, dẫn dắt chúng sinh đi vào tuệ thiện pháp, thường nhớ nghĩ nhập định nên không mất thần túc.

Tu tập thần thông, phân biệt ba đời, quá khứ, hiện tại, vị lai, trí tuệ vô biên nên suy nghĩ học kho tạng Phật Pháp thâm sâu, cũng nên học tất cả các pháp của Chư Phật, hiểu rõ các pháp thì không còn bị lệ thuộc, học cách diễn bày kho tạng bảy báu không cùng tận, học cách dùng trí thần thông thành tựu cõi nước, tu tập ánh sáng chiếu khắp mười phương, được định ý của Phật, chấn động cõi nước.

Học phương tiện quyền xảo, giáo hóa ngoại đạo, học giữ giới thành tựu đạo quả. Học cách hội họp để chuyển pháp luân, tự thân học được thành nhất thiết trí, sự học thành tựu, không còn gì để học.

Đức Phật bảo Tối Thắng: Đó là Bồ Tát tu hành an trụ địa thứ mười, tiến tới thành Phật, sửa sinh cõi nước, sinh vào Cõi Đâu Suất giáo hóa Trời, người, hiện pháp thù thắng đặc biệt, quán sát sinh vào dòng họ cõi nước nào?

Từ cõi Đâu suất hạ sinh xuống nhân giann, trải qua ba mươi sáu lần, xoay vần qua lại giáo hóa Trời người, trong thời gian đó độ thoát vô số chúng sinh, bằng phương tiện quyền xảo vượt len ba cõi không hề khiếp sợ, sau đó hạ sinh xuống nhân gian, tu khổ hạnh sáu năm, chuyên tâm chịu khổ, thân như cây khô. Tuy ta thị hiện việc khó làm ở cõi này nhưng ta vẫn đang ở Cõi Phật khác giáo hóa tám mươi bốn ức na do tha, Trời, người, đều khiến họ được quả vị không thoái chuyển.

Chúng sinh ở cõi này thấy thân hình của ta cho là đã chết, không còn mạng sống, họ đi qua, chất củi thiêu đốt nhưng không cháy, bằng phương tiện thiện xáo nhất tâm tinh chuyên phát triển thánh tuệ, không bỏ sự mong cầu của chúng sinh, trừ những gì không cần thiết ra thì yêu mến chúng sinh vô cùng. Cho nên Bồ Tát hiện đủ các việc khó làm.

Bồ Tát bậc thứ mười khai hóa chúng sinh không lià xa sinh tử, độ mọi người giác ngộ như Phật. Nếu Bồ Tát muốn mau thành đạo Vô thượng, như trong khảy móng tay được than màu hoàng kim, đầy đủ mười lực, bốn vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng thù thắng.

Bồ tảt trong một ngày thành tựu quyến thuộc nhưng không cầu các thứ tốt xấu cõi nước ấy, chỉ vì chúng sinh có tâm cao ngạo, khen mình, chê người, không bỏ tự đại, cho nên Bồ Tát hiện thọ bào thai, tùy theo thế gian phương tiện biến hóa, sinh vào chỗ nào cũng làm nhiều lợi ích.

Bồ Tát bậc thứ mười không có hiệu Bồ Tát, thường gọi danh hiệu Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Vị Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đại Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, hội đủ vô lượng phước, được Chư Phật ủng hộ, được Chư Thiên bảo vệ, đã diễn nói pháp thì có nhân duyên đúng thời thích hợp làm gì cũng lợi ích cả.

Tối Thắng nên biết! Sở dĩ gọi là Cõi Phật vô hiệu, là vì cách đây bảy mươi bảy hằng hà sa cõi nước Chư Phật về hướng Đông Nam, có Thế Giới kia gọi là nhân hiền, Đức Phật gọi là thiên nhãn. Nước ấy không có đạo Thanh Văn.

Duyên Giác, không có danh hiệu cũng không có pháp sinh diệt, cùng tuyền trao cho nhau biết giải thoát là không nên chấp giái thoát, nghe pháp không được giái thoát, hiểu rõ không khó, cũng không còn ba độc dâm dục, sân giận, ngu si, ghi nhớ tất cả thật không cùng tận. Ta làm việc Phật sự ở cõi nước kia, chúng sinh ở đây cũng không biết chỗ ở của ta.

Đó là những điều Bồ Tát đã đật được. Đó là Bồ Tát bậc thứ mười trụ trong mười địa làm thanh tịnh hành động của mình.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần